Chính phủ đề xuất 5 chính sách đặc thù cho các dự án giao thông
5 chính sách đặc thù cho các dự án giao thông
Dự thảo Nghị quyết gồm 10 điều với 5 nhóm chính sách, trong mỗi chính sách sẽ có danh mục thí điểm kèm theo.
Chính sách 1 là Chính phủ đề xuất “nới” tỷ lệ vốn Nhà nước tham gia dự án giao thông đường bộ theo hình thức đối tác công – tư (PPP) lên tối đa 70% tổng mức đầu tư dự án, tăng 20% so với hiện hành.
Theo Bộ trưởng Bộ Kế hoạch & Đầu tư Nguyễn Chí Dũng, thực tế một số dự án giao thông đường bộ có tổng mức đầu tư lớn, trong khi nhu cầu vận tải chưa cao nên cần vốn Nhà nước nhiều hơn để đảm bảo khả thi khi kêu gọi đầu tư. Ngoài ra, tiền để giải phóng mặt bằng tại một số dự án chiếm tỷ lệ cao trong tổng mức đầu tư, nếu vốn Nhà nước thấp sẽ khó có hiệu quả tài chính, không hấp dẫn các nhà đầu tư tham gia.
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch & Đầu tư Nguyễn Chí Dũng trình bày Tờ trình của Chính phủ. Ảnh: Quốc hội |
Vì thế, việc tăng tỷ lệ vốn Nhà nước tại dự án PPP giao thông đường bộ nhằm tạo động lực huy động vốn tư nhân, hấp dẫn nhà đầu tư và ngân hàng rót vốn khi hiệu quả tài chính dự án được đảm bảo. Đây cũng là chính sách được Quốc hội cho phép áp dụng tại thành phố Hồ Chí Minh, theo Nghị quyết 98. Chính sách này áp dụng cho 1 dự án thuộc địa phận tỉnh Thái Bình.
Chính sách số 2 về thẩm quyền thực hiện đầu tư dự án đường quốc lộ, đường cao tốc đi qua các địa phương, đề xuất là Thủ tướng Chính phủ xem xét quyết định giao UBND cấp tỉnh có khả năng bố trí nguồn vốn đầu tư từ ngân sách địa phương (bao gồm cả vốn hỗ trợ từ ngân sách trung ương nếu có) làm cơ quan chủ quản thực hiện đầu tư dự án đường quốc lộ, đường cao tốc đi qua địa phương mình. … Chính sách này áp dụng cho 7 dự án thuộc địa bàn các tỉnh Sơn La, Ninh Bình, Hậu Giang, Cần Thơ, Khánh Hòa, Bình Phước.
Chính sách số 3 về các dự án giao thông đường bộ qua nhiều địa phương: Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định giao một UBND cấp tỉnh làm cơ quan chủ quản thực hiện đầu tư dự án giao thông đường bộ qua nhiều địa phương và sử dụng ngân sách địa phương này hỗ trợ vốn đầu tư cho địa phương khác để đầu tư thực hiện dự án.
Chính sách này áp dụng cho 10 dự án thuộc địa bàn các tỉnh Lào Cai, Lai Châu, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Bắc Ninh, Hải Dương, Đà Nẵng, Quảng Nam, Vĩnh Long, Bến Tre, Tiền Giang, Long An, Sóc Trăng, Hậu Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Ninh Thuận, Lâm Đồng, Đồng Tháp.
“Quy định hiện nay không cho phép địa phương quyết định chủ trương đầu tư, bố trí vốn cho dự án đi qua địa bàn tỉnh khác. Trong khi thực tế nhiều dự án giao thông qua nhiều địa phương, hoặc đi qua ranh giới hai địa phương bằng cầu, hầm. Nếu mỗi địa phương đầu tư một nửa cầu, hầm sẽ không thuận lợi cho quản lý dự án, lãng phí bộ máy, thời gian, thủ tục đầu tư. Do đó, chính sách này nhằm thống nhất thẩm quyền, gỡ vướng cho dự án giao thông đi qua nhiều địa phương” – Bộ trưởng Bộ Kế hoạch & Đầu tư Nguyễn Chí Dũng thông tin.
Chính sách 4 Chính phủ đề nghị là cơ chế đặc thù trong khai thác mỏ khoáng sản vật liệu xây dựng thông thường, trong bối cảnh nhiều dự án đang triển khai thiếu vật liệu, giá bị đẩy lên cao. Các cơ chế, chính sách này được Chính phủ đề nghị áp dụng các cơ chế đặc thù trên tới hết năm 2025. Mỗi cơ chế sẽ kèm theo danh mục dự án cụ thể được áp dụng tại các địa phương.
Toàn cảnh Kỳ họp. Ảnh: Quốc hội |
Chính sách này áp dụng cho 16 dự án thuộc địa bàn các tỉnh: Thái Bình, Nam Định, Lai Châu, Lào Cai, Ninh Bình, Đồng Nai, Lâm Đồng, Tiền Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ, Bắc Kạn, Kiên Giang, Bạc Liêu, Trà Vinh, Sóc Trăng, Cao Bằng, Lạng Sơn, Hậu Giang
Chính sách số 5 về cơ chế đặc thù áp dụng đối với các dự án sử dụng nguồn tăng thu ngân sách trung ương năm 2022, gồm 4 nội dung.
Một, cấp có thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư các dự án khởi công mới trong giai đoạn 2021-2025 căn cứ các nguồn vốn: dự kiến từ nguồn tăng thu ngân sách trung ương năm 2022; dự kiến vốn ngân sách nhà nước trong năm 2024-2025 khi có điều kiện hoặc trong kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2026-2030, áp dụng cho 06 dự án của Bộ Giao thông vận tải, Ninh Bình, Thái Bình, Bình Phước, Bình Dương, thành phố Cần Thơ.
Hai, cho phép các dự án do địa phương quản lý đã có trong kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 được điều chỉnh quyết định chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư tương ứng với số vốn ngân sách trung ương bố trí tăng thêm cho dự án từ nguồn tăng thu ngân sách trung ương năm 2022, áp dụng cho 07 dự án của tỉnh Lạng Sơn, Sơn La, Thừa Thiên Huế, Bắc Kạn, Quảng Ngãi, Tiền Giang, Đồng Tháp, Tuyên Quang.
Ba, cho phép giao kế hoạch từ nguồn tăng ngân sách trung ương năm 2022 cho các dự án khi các dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt chủ trương đầu tư và nguồn vốn này được thực hiện và giải ngân trong 3 năm từ 2023-2025, áp dụng cho 30 dự án của Bộ Giao thông vận tải, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Bắc Kạn, Sơn La, Hải Dương, Ninh Bình, Thái Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Lâm Đồng, thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh, Vĩnh Long, thành phố Cần Thơ.
Bốn, bố trí vốn tăng thu ngân sách trung ương năm 2022 để thanh toán chi phí giải phóng mặt bằng (bao gồm phần chậm trả) các dự án giao thông đường bộ thuộc nhiệm vụ của ngân sách trung ương phát sinh sau khi dự án đã quyết toán, áp dụng cho 1 nhiệm vụ chi của tỉnh Nghệ An.
Đối với nhóm các chính sách 1, 2, 3, 4, Chính phủ đề nghị Quốc hội cho phép áp dụng trong thời gian đến hết năm 2025; đối với chính sách 5 trình Quốc hội cho áp dụng 1 lần. Các dự án sau khi được áp dụng cơ chế đặc thù được thực hiện đến khi hoàn thành dự án.
Nhất trí tăng tỷ lệ vốn nhà nước tại dự án PPP lên không quá 70%
Trình bày Báo cáo thẩm tra, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh cho biết, nhiều ý kiến tán thành với sự cần thiết ban hành Nghị quyết. Tuy nhiên, Ủy ban Kinh tế đề nghị cần bổ sung đánh giá kỹ lưỡng, đầy đủ, cụ thể hơn về tác động của các chính sách, làm rõ hơn đối với tác động đến thu, chi ngân sách nhà nước (NSNN) và nguồn lực bảo đảm thực hiện chính sách.
Về tỷ lệ vốn nhà nước tham gia dự án đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP), Ủy ban Kinh tế cơ bản nhất trí với đề xuất tăng tỷ lệ vốn nhà nước tham gia dự án đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP) không quá 70% tổng mức đầu tư của dự án đề xuất thí điểm.
Bên cạnh đó, thời gian qua các tổ chức tín dụng, nhà đầu tư quan ngại việc tham gia đầu tư các dự án giao thông PPP. Do đó, đề xuất của Chính phủ về tỷ lệ vốn nhà nước tham gia dự án đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP) sẽ chưa xử lý triệt để được những khó khăn, vướng mắc của các dự án giao thông PPP hiện nay.
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh trình bày Báo cáo thẩm tra. Ảnh: Quốc hội |
Vì vậy, Ủy ban Kinh tế đề nghị Chính phủ cần có giải pháp đồng bộ để bảo đảm hiệu quả của chính sách đề xuất. Ngoài ra, đề nghị xác định rõ tỷ lệ và phần vốn nhà nước dành cho việc thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đối với các dự án tại Phụ lục 1 của Danh mục dự án thí điểm, để làm rõ hơn sự cần thiết của chính sách này.
Liên quan đến các dự án giao thông đường bộ qua nhiều địa phương Ủy ban Kinh tế cơ bản nhất trí với đề xuất của Chính phủ về các dự án giao thông đường bộ qua nhiều địa phương nhằm cho phép sử dụng ngân sách của địa phương này hỗ trợ vốn cho các địa phương khác, tạo sự linh hoạt trong điều hành ngân sách, đáp ứng nhu cầu cấp bách của các địa phương và thuận lợi hơn cho công tác quản lý dự án…
Về cơ chế đặc thù trong khai thác mỏ khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường (Điều 7), Ủy ban Kinh tế đề nghị tiếp tục nghiên cứu, đánh giá kỹ lưỡng để có các giải pháp phù hợp hơn nữa nhằm bảo đảm tiến độ cho các dự án.
Đối với nguyên tắc, tiêu chí lựa chọn dự án thí điểm và Danh mục các dự án đề xuất áp dụng thí điểm kèm theo dự thảo Nghị quyết, Ủy ban Kinh tế đề nghị tiếp tục bổ sung, hoàn thiện các nguyên tắc, tiêu chí lựa chọn dự án thí điểm, để bảo đảm các dự án được lựa chọn phải thực sự cần thiết, cấp bách và phù hợp với quy định pháp luật, tránh thất thoát, lãng phí, kém hiệu quả….
Nguồn: Báo lao động thủ đô