Mục tiêu của PV GAS là trở thành doanh nghiệp số 1 Việt Nam về kinh doanh hạ tầng và cung ứng LNG
– Với những mục tiêu, chiến lược mà PV GAS đặt ra theo quy hoạch điện VIII, xin ông cho biết kế hoạch phát triển chuỗi giá trị LNG của PV GAS?
Ông Nguyễn Thanh Bình: Trong bối cảnh nguồn cung khí trong nước đang suy giảm nhanh chóng, đồng thời nhu cầu sử dụng khí cho phát điện ngày càng tăng thì việc sớm triển khai các dự án điện khí LNG sẽ có ý nghĩa hết sức to lớn cho mục tiêu đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia.
Theo quy hoạch điện VIII (quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050) thì định hướng đến năm 2050 Việt Nam không còn sử dụng than cho phát điện, theo đó vai trò chạy nền của các nhà máy điện khí trong hệ thống điện là tất yếu vì là nguồn điện duy nhất không bị ảnh hưởng bởi thời tiết so với thủy điện, điện gió và điện mặt trời.
Ngoài ra, lợi thế của các nhà máy điện khí là tính sẵn sàng cao, công suất lớn với dải điều chỉnh rộng, thời gian đáp ứng nhanh, giảm thiểu phát thải khí nhà kính CO2, đặc biệt giảm thiểu khí gây ô nhiễm SOx, NOx so với các nhà máy điện chạy than và dầu, đưa LNG vào sử dụng cũng góp phần hoàn thành các cam kết của Chính phủ tại COP26 và phù hợp với xu hướng sử dụng nhiên liệu giảm phát thải trên phạm vi toàn cầu.
Điều này đã được khẳng định trong các chủ trương, định hướng của Đảng và Chính phủ Việt Nam. Nghị quyết số 55-NQ/TW ngày 11/02/2020 của Bộ Chính trị về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã khẳng định Việt Nam sẽ ưu tiên đầu tư hạ tầng kỹ thuật phục vụ nhập khẩu và tiêu thụ khí tự nhiên hóa lỏng LNG.
Quy hoạch điện VIII vừa được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 500/QĐ-TTg ngày 15/5/2023, đã khẳng định đến năm 2030 Việt Nam sẽ có 13 nhà máy điện sử dụng LNG với công suất khoảng 22.400 MW, chiếm 15% tổng công suất nguồn điện toàn quốc.
Bên cạnh đó, quy hoạch tổng thể về năng lượng quốc gia thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến 2050 vừa được thủ tướng phê duyệt ngày 26/7/2023 cũng đã xác định đến năm 2030, cơ sở hạ tầng nhập khẩu LNG sẽ đạt khoảng 15,7 – 18,2 tỷ m3, đảm bảo đủ năng lực đáp ứng nhu cầu khí cho sản xuất điện và các hộ tiêu thụ khác.
Với vị thế tiên phong, đóng vai trò chủ đạo trong ngành công nghiệp khí Việt Nam, Tổng Công ty Khí Việt Nam thuộc Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam hiện là đơn vị sở hữu và vận hành hệ thống khí hoàn chỉnh từ khâu thu gom, tàng trữ, chế biến đến kinh doanh khí và các sản phẩm khí.
Với kinh nghiệm trên 30 năm xây dựng và trưởng thành, chúng tôi xác định để tham gia đảm bảo an ninh năng lượng cho Việt Nam trong các năm tới thì bước đi đầu tiên quan trọng nhất của PV GAS là tập trung đầu tư cơ sở hạ tầng làm tiền đề để mở rộng hoạt động cung ứng và kinh doanh LNG. Mục tiêu của chúng tôi là trở thành doanh nghiệp số 1 của Việt Nam trong lĩnh vực kinh doanh hạ tầng và cung ứng LNG.
– Ông có thể chia sẻ thêm về kế hoạch đầu tư hạ tầng của PV GAS trong những năm tiếp theo?
Hiện nay, giai đoạn 1 của công trình Kho cảng LNG Thị Vải tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã hoàn thành và giai đoạn 2 sẽ sớm được triển khai nâng công suất lên 3 triệu tấn/năm. PV GAS cũng đang đầu tư xây dựng kho cảng nhập khẩu LNG Sơn Mỹ tại tỉnh Bình Thuận với công suất dự kiến khi hoàn thành giai đoạn 1 là 3,6 triệu tấn LNG/năm và lên đến 10 triệu tấn LNG/năm cho cả 2 giai đoạn. Cơ sở hạ tầng LNG của PV GAS sẽ cơ bản đáp ứng nhu cầu năng lượng cho khu vực Đông Nam bộ và Nam Trung bộ trong tương lai.
Ngoài ra, PV GAS sẽ tiếp tục xây dựng, mở rộng cơ sở hạ tầng và hệ thống vận chuyển LNG theo mô hình “Kho cảng LNG trung tâm (LNG Hub) cung cấp nguồn khí tái hóa cho các Trung tâm Nhiệt điện khí vệ tinh trên toàn quốc” với cả 3 khu vực trọng yếu trong hệ thống năng lượng quốc gia (công nghiệp khí và công nghiệp điện) bao gồm: Đông Nam bộ, Nam Trung bộ và Bắc bộ/Bắc Trung bộ. 3 LNG Hub này sẽ kết nối đồng bộ với hệ thống đường ống vận chuyển khí tái hóa/hệ thống vận chuyển LNG đường biển và hệ thống cung ứng LNG (đường biển/sông, đường bộ) đến các hộ tiêu thụ/trung tâm điện lực.
PV GAS đã nghiên cứu và đánh giá rằng, để phát triển bền vững thì hệ thống hạ tầng điện khí LNG của Việt Nam cần được phát triển theo mô hình kho LNG trung tâm (LNG Hub).
Để có thể phát triển theo mô hình này, Nhà nước cần giao nhiệm vụ cho các doanh nghiệp Nhà nước hoặc Nhà nước nắm cổ phần chi phối như Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (Petrovietnam), Tổng công ty Khí Việt Nam (PV GAS) là đơn vị có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực công nghiệp khí cũng như những am hiểu nhất định về thị trường.
Việc giao nhiệm vụ cho các doanh nghiệp như Petrovietnam và PV GAS có thể giúp tận dụng năng lực tài chính, kinh nghiệm và cơ sở hạ tầng hiện có trong lĩnh vực công nghiệp khí để phát triển hệ thống hạ tầng nhập khẩu và cung ứng LNG của quốc gia.
Điều này phù hợp với chủ trương của Chỉnh phủ tại Quyết định 2233/QĐ-TTg ngày 28/12/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án phát triển thị trường năng lượng cạnh tranh đến năm 2030 tầm nhìn đến năm 2045.
Thực tế, việc phát triển hệ thống hạ tầng điện khí LNG cho Việt Nam theo mô hình kho cảng LNG trung tâm (LNG Hub) đã và đang được các nước trong khu vực và trên thế giới triển khai thành công và đảm bảo hiệu quả tổng thể như: Tập đoàn PTT- Thái Lan, Công ty Singapore LNG (SLNG) – Singapore, Công ty KOGAS – Hàn Quốc, các tập đoàn lớn của Nhật như: Tokyo Gas, Osaka Gas…
– Ông đánh giá như thế nào về các cơ hội và thách thức liên quan đến triển khai thực hiện chiến lược này thời gian tới cũng như hiện thực hóa quy hoạch điện VIII?
Với định hướng như trên, chúng tôi đánh giá tại thời điểm hiện nay thì cơ hội đang song hành với thách thức.
Cơ hội của PV GAS trong việc phát triển chuỗi giá trị LNG đến từ các yếu tố bên trong lẫn bên ngoài. Đối với các tác động bên ngoài, hiện nay nhu cầu về LNG là tất yếu, không thể đảo ngược; việc nhập khẩu LNG là hướng đi phù hợp về mặt chính sách và tối ưu về mặt kinh tế để bổ sung kịp thời lượng khí thiếu hụt do sự suy giảm của nguồn khí nội địa, hiện thực hóa quá trình chuyển dịch dài hạn từ các nhiên liệu cho phát điện khác (như than, dầu) sang khí tự nhiên, góp phần đảm bảo an ninh năng lượng của quốc gia, thúc đẩy sự phát triển của các ngành công nghiệp trong nước, đồng thời đảm bảo được “cam kết xanh” của Việt Nam với thế giới.
Từ nội lực bên trong, hiện nay PV GAS đã trở thành thương hiệu lớn có uy tín trong nước và khu vực với đội ngũ nhân lực trình độ cao, tiềm lực tài chính vững mạnh với hệ thống hạ tầng công nghiệp khí đang ngày càng hoàn thiện theo hướng hiện đại hóa. Chúng tôi đã đưa vào sử dụng Kho LNG Thị Vải 1 triệu tấn/năm, đang tiếp tục nâng cấp lên 3 triệu tấn/năm và bắt đầu triển khai Dự án Kho LNG Sơn Mỹ.
Trong tương lai, cơ sở hạ tầng LNG của PV GAS sẽ cơ bản đáp ứng nhu cầu năng lượng cho các thị trường tiêu thụ chính. Bên cạnh đó, PV GAS cũng là doanh nghiệp đầu tiên và duy nhất tại Việt Nam đến thời điểm hiện nay đủ điều kiện xuất nhập khẩu LNG.
Về thách thức đối với chuỗi giá trị LNG của PV GAS và quy hoạch điện VIII, tôi cho rằng đầu tiên là vấn đề thời gian và sau đó là vấn đề cơ chế chính sách.
Theo quy hoạch điện VIII thì sau 2035 sẽ không phát triển nguồn LNG mới, do đó chúng ta chỉ còn hơn 10 năm để triển khai các dự án về LNG, trong khi đó cơ chế chính sách hiện còn chưa hoàn thiện để cho phép doanh nghiệp/chủ đầu tư chủ động triển khai các dự án điện khí LNG.
Ví dụ, đối với quy hoạch điện VIII, Chính phủ/Bộ Công thương cần ban hành kế hoạch thực hiện quy hoạch một cách khả thi để các địa phương, nhà đầu tư có căn cứ triển khai. Thêm nữa, một số quy hoạch ngành, địa phương chưa đồng bộ với quy hoạch điện VIII dẫn đến việc tìm kiếm địa điểm xây dựng Kho LNG sẽ gặp nhiều khó khăn.
Ngoài ra, cơ chế chính sách liên quan đến LNG như cơ chế bao tiêu, chuyển ngang (pass through), các quy định liên quan đến giá khí, cước phí chưa rõ ràng về thẩm quyền phê duyệt cũng như cách thức xác định… sẽ gây khó khăn cho việc xác định giá phát điện đầu ra cũng như đàm phán các thỏa thuận thương mại giữa các khâu.
Chúng tôi cho rằng, đây là thời điểm “vàng” để Việt Nam có thể hiện thực hóa kế hoạch nhập khẩu LNG thông qua quy hoạch điện VIII. Để làm được điều này, các doanh nghiệp trong nước rất cần một hành lang pháp lý phù hợp nhằm tạo dựng một môi trường kinh doanh cạnh tranh, minh bạch và đảm bảo lợi ích của các bên liên quan để có thể tháo gỡ các nút nghẽn chính sách hiện nay và thúc đẩy tiến độ triển khai các dự án LNG.
– Xin cảm ơn những chia sẻ của ông!
Nguồn: Báo doanhnghiepthuonghieu