Giải pháp tăng cường tuân thủ chất lượng, an toàn thực phẩm trong thương mại quốc tế

Theo đó, AOAC SEA (Association of Official Analytical Collaboration Southeast Asian Section) là một bộ phận thuộc khu vực Đông Nam Á của Hiệp hội Quốc tế về Hợp tác phân tích chính thức (AOAC International) với sự tham gia của 10 nước thành viên bao gồm: Brunei, Campuchia, Indonesia, Lào, Malaysia, Myanmar, Philippines, Singapore, Timor-Leste và Việt Nam.

Tổ chức với tầm nhìn và vai trò trở thành đơn vị đóng góp trong việc tập hợp định hướng của Chính phủ, nguồn lực ngành công nghiệp, viện nghiên cứu để phát triển các giải pháp phân tích dựa trên sự đồng thuận về an toàn thực phẩm, tính toàn vẹn của thực phẩm và sức khỏe cộng đồng trên khắp quốc gia Đông Nam Á.

Tại hội thảo, ban tổ chức khuyến khích các đơn vị, các nước tham gia trình bày về những vấn đề phù hợp với đối tượng quan tâm trong phạm vi Đông Nam Á, cũng như chủ đề có liên quan đến Việt Nam và các bên tham gia trong khu vực, phù hợp với tầm nhìn, sứ mệnh và chương trình của AOAC International như: Dư lượng thuốc trừ sâu, kim loại nặng, hóa chất công nghiệp, phóng xạ hạt nhân, độc tố từ nấm mốc và những thách thức mới; Vi sinh thực phẩm, hóa học thực phẩm và công nghệ thực phẩm; Phụ gia thực phẩm, chế biến thực phẩm, đóng gói thực phẩm, vận chuyển và xử lý thực phẩm; Sản xuất nông nghiệp và sản xuất thực phẩm;

Hệ thống kiểm soát thực phẩm quốc gia: Giám sát và lấy mẫu, phương pháp phát hiện và phân tích, áp dụng các tiêu chuẩn và yêu cầu an toàn thực phẩm; Hài hòa tiêu chuẩn thực phẩm: tiêu chuẩn quốc tế (phân tích rủi ro, điều tra khoa học…), giới hạn tối đa dư lượng thuốc bảo vệ thực vật và dư lượng thuốc thú y – quy trình chuẩn.

Bên cạnh đó, một số chủ đề cũng được đưa ra bàn luận dựa trên ý kiến tham vấn của các nhà quản lý tại Việt Nam và AOAC International như: Quy định về thuốc trừ sâu và phân tích đa dư lượng (bao gồm ethylene oxide); Phân tích đa dư lượng kháng sinh; Phương pháp kiểm tra PFAS (per- and polyfluoroalkyl substances) và đánh giá rủi ro; Xử lý chất gây ô nhiễm (acrylamide, amin dị vòng,… ); Kim loại nặng: Sáng kiến “zero” cho thực phẩm ở Mỹ; Phân tích tạp nhiễm thực phẩm; Xét nghiệm vi sinh (bao gồm NGS – Next Generation Sequencing); Phương pháp đánh giá rủi ro.

Trong khuôn khổ chương trình, Trung tâm Kỹ thuật Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng 3 (QUATEST 3) là tổ chức khoa học uy tín về đánh giá sự phù hợp đối với chất lượng sản phẩm hàng hóa tại Việt Nam thuộc Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng – Bộ Khoa học và Công nghệ đã tham gia báo cáo 2 chuyên đề liên quan đến thử nghiệm vi sinh và thử nghiệm thành thạo.

 Bà Trần Thị Ánh Nguyệt, Trưởng phòng Thử nghiệm Vi sinh, QUATEST 3.

Cụ thể, bà Trần Thị Ánh Nguyệt, Trưởng phòng Thử nghiệm Vi sinh, QUATEST 3 có bài trình bày về: “Ứng dụng công nghệ MALDI Biotyper để định danh vi sinh vật trong PTN Vi vi sinh thực phẩm và ngành thực phẩm”.

Bài trình bày tập trung vào nguyên lý của phương pháp định danh vi sinh vật dựa trên dấu ấn phân tử sử dụng kỹ thuật MALDI TOF MS (Matrix assisted laser desorption ionization – time of flight mass spectrometry) và ứng dụng của công nghệ này trong định danh các vi sinh vật ô nhiễm trong thực phẩm, trong môi trường sản xuất, cũng như xác định các vi sinh vật hiện diện trong các chế phẩm probitic.

Bên cạnh đó, bài trình bày cũng đề cập đến ưu điểm cũng như một số hạn chế của kỹ thuật này. Với các ưu điểm vượt trội như thời gian thử nghiệm nhanh, quy trình đơn giản, được tự động hóa cùng với dữ liệu thư viện phổ tham chiếu lớn, khoảng 4.500 loài cho nhóm vi khuẩn, nấm men, nấm mốc. Kỹ thuật này ngày được ứng dụng nhiều và có xu hướng thay thế cho một số kỹ thuật truyền thống để định danh và khẳng định vi sinh vật. 

 Bà Hồ Trần Ngọc Quyên, Phụ trách Phòng Thử nghiệm Thành thạo, QUATEST 3.

Tiếp theo, bà Hồ Trần Ngọc Quyên, Phụ trách Phòng Thử nghiệm Thành thạo, QUATEST 3 có bài trình bày “Làm thế nào để có thể tham gia và sử dụng kết quả thử nghiệm thành thạo (TNTT) hiệu quả?”.

Bà Quyên cho biết, TNTT là công cụ khách quan để đánh giá hoạt động của phòng thí nghiệm. Việc tham gia vào chương trình TNTT giúp các phòng thí nghiệm theo dõi và đánh giá độ tin cậy các kết quả của họ. Ngày nay, cùng với sự phát triển của các phòng thí nghiệm, nhu cầu tham gia các chương trình TNTT ngày càng tăng, tương ứng với đó là nhiều nhà cung cấp TNTT và các chương trình TNTT.

Do đó, nếu không có các tiêu chí phù hợp để lựa chọn chương trình TNTT và mục đích tham gia TNTT thì thời gian, tiền bạc và công sức có thể bị tiêu tốn quá mức, đặc biệt là đối với các phòng thí nghiệm thực hiện nhiều phép thử khác nhau. Phần trình bày này cũng cung cấp một số nguyên tắc để lựa chọn các chương trình TNTT phù hợp, sử dụng kết quả phân tích một cách hiệu quả và đề xuất một số biện pháp khắc phục trong trường hợp có kết quả số lạc khi tham gia chương trình TNTT, đặc biệt là trong các chương trình TNTT lĩnh vực vi sinh.

Có thể nói, Hội thảo Quốc tế AOAC SEA đã cung cấp cho thành viên các nước nhiều kiến thức về cơ hội, giải pháp hiệu quả giúp tăng cường sự tuân thủ chất lượng và an toàn thực phẩm trong thương mại quốc tế theo các nhóm lĩnh vực liên quan. Đây cũng là cơ hội để các chuyên gia học hỏi và chia sẻ kinh nghiệm lẫn nhau giữa các chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực này tại khu vực và trên thế giới.

PV

Nguồn: Tạp chí điện tử chất lượng Việt Nam

Bạn cũng có thể thích