Tháng 9 tưởng nhớ huyền tích Lữ Minh Châu
Tháng 9 tưởng nhớ huyền tích Lữ Minh Châu
Sự ra đời và phát triển Khu chế xuất đầu tiên tại Việt Nam có sự đóng góp to lớn của “người buôn tiền lịch sử” Lữ Minh Châu.
Trọn đời vì nước vì dân
Cách đây 30 năm vào tháng 9 năm 1991, Ủy ban Nhà nước về Hợp tác và Đầu tư (nay là Bộ Kế hoạch và đầu tư) ký giấy phép đầu tư cho ra đời Khu chế xuất Tân Thuận TP.HCM-Khu chế xuất đầu tiên của Việt Nam, đánh dấu mở đầu cho thời kỳ “mở cửa”, “trải thảm” thu hút đầu tư nước ngoài, thực hiện công cuộc “công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
Ông Lữ Minh Châu (29/9/1929- 27/2/2016), tên thật là Lữ Triều Phú, quê quán tại xã Khánh An, huyện U Minh, tỉnh Cà Mau. Ông từng công tác ở Văn phòng Liên tỉnh ủy Hậu Giang, Văn phòng Xứ ủy Nam bộ, Văn phòng Trung ương Cục. Năm 1954, ông tập kết ra Bắc rồi sang Liên Xô học về Tài chính Ngân hàng. Trong kháng chiến chống Mỹ, Lữ Minh Châu là một mắt xích quan trọng của “đường dây buôn tiền” – vận chuyển đôla cho Cách mạng miền Nam. Ông nguyên là Phó Trưởng ban Tài chính Đặc biệt thuộc T.Ư Cục miền Nam; Ủy viên Ban Chấp hành T.Ư Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VI; Đại biểu Quốc hội khóa VIII; Tổng Giám đốc (Thống đốc) Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; Thành ủy viên, Bí thư Ban Cán sự Đảng, Giám đốc Ngân hàng TP.HCM; Phó Chủ nhiệm Ủy ban Nhà nước về Hợp tác và đầu tư kiêm Trưởng ban Quản lý các khu chế xuất và khu công nghiệp TP.HCM; Chủ tịch HĐQT Ngân hàng phát triển nhà Đồng bằng sông Cửu Long; Phó Trưởng ban thường trực Ban Chỉ đạo xây dựng Khu di tích lịch sử cách mạng miền Nam; Huân chương Độc lập hạng Nhì; Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng Ba; Huân chương Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước hạng Nhất; Huân chương Lao động hạng Ba; Huy hiệu 65 năm tuổi Đảng.
Từ khi về làm Phó Chủ nhiệm Ủy ban Nhà nước về hợp tác đầu tư, kiêm Trưởng ban quản lý Khu chế xuất Tân Thuận từ đầu năm 1990 cho đến 1995, ông Ba Châu đã góp phần đắc lực xây dựng thành công mô hình khu chế xuất, khu công nghiệp đầu tiên của cả nước. Đây là nơi thực hiện “1 cửa, 1 dấu”, chủ động trong sản xuất kinh doanh, khẳng định bước tiến mới, thoát khỏi cơ chế quan liêu bao cấp. Đại hội lần thứ VI của Đảng, ông Ba Châu được bầu vào Trung ương với nhiệm vụ Bộ trưởng, Thống đốc Ngân hàng cho tới năm 1989 và là đại biểu Quốc hội khóa VIII. Theo lời mời của ông Võ Văn Kiệt, ông Ba Châu còn làm Chủ tịch Hội đồng quản trị Ngân hàng Phát triển nhà Đồng bằng sông Cửu Long, rồi phụ trách việc xây dựng Khu di tích cách mạng miền Nam ở Tây Ninh cho tới lúc chính thức nghỉ hưu là 74 tuổi và mất ngày 27/2/2016.
Nhớ mãi một huyền thoại sống
Ông Nguyễn Văn Bé-Chủ tịch Hiệp hội các doanh nghiệp khu công nghiệp TP.HCM hồi tưởng lại: Ông Lữ Minh Châu – chú Ba Châu thân yêu của chúng tôi, vị Trưởng ban đầu tiên của Ban Quản lý các khu chế xuất và công nghiệp TP.HCM. Con người ấy đã trải qua cả hai thời kỳ kháng chiến và kiến quốc với ngần ấy chức vụ, nhưng mãi đến 74 tuổi mới chính thức nghỉ hưu thì quả thật không thể kể xiết công lao mà chú đã cống hiến cho Tổ quốc, cho nhân dân. Tưởng nhớ chú Ba Châu, nhớ từng chức vụ chú đã đảm nhiệm, chúng ta lại càng không thể quên những câu chuyện gắn liền với chú hầu như đã trở thành huyền thoại lịch sử, những câu chuyện bất tử, đầy kịch tính, độc nhất vô nhị và là những bài học vô giá. Song điều đáng tiếc là cho đến nay cũng chưa ai thực sự biết đầy đủ về một học sinh Sài Gòn tên Lữ Triều Phú sinh năm 1929, sớm đến với cách mạng để trở thành sĩ quan liên lạc của Phái bộ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bên cạnh Ủy ban Quốc tế Kiểm soát Đình chiến những năm 1954-1956. Một sinh viên tốt nghiệp ngành tài chính ngân hàng tại Liên Xô (1959-1964); Một điệp báo chiến lược được đồng chí Lê Đức Thọ và Phạm Hùng giao nhiệm vụ và được đào tạo nghiệp vụ tình báo, thành thạo tiếng Pháp, tiếng Anh và tiếng Khmer, theo đường Trường Sơn lặn lội vào Nam để trở thành Việt Kiều tại Phnom Penh “lặn luôn trong Việt Kiều”. Chú từng là một thương nhân tên Nguyễn Văn Thảo tổ chức “đường dây buôn tiền lịch sử” quy mô ngày càng lớn tại Campuchia kịp thời cung ứng hằng trăm triệu tiền đô, hàng tỷ tiền đồng cho chiến trường miền Nam (1964-1970). Chú cũng từng là một thương gia Việt Kiều hồi hương trở thành giám đốc chi nhánh ngân hàng hợp pháp công khai tại Sài Gòn, trung tâm đầu não chiến tranh của Mỹ và cũng là trung tâm tài chính của chính quyền Sài Gòn, tiếp tục tổ chức chuyển ngân, đổi tiền, buôn tiền… lên đến hàng trăm triệu đô la, chú chuyển qua lại tận Hồng Kong, Phnom Penh, Paris, Trung Quốc… kịp thời cung ứng cho Trung ương Cục (1970-1975). Đó là một Trưởng ban Quân quản ngân hàng Sài Gòn- Gia Định bảo quản an toàn 16 tấn vàng và toàn bộ tiền tệ của chính quyền Sài Gòn trong và ngoài nước. Một tổng giám đốc ngân hàng TP.HCM tham gia “xé rào” cung cấp tiền thu mua lúa gạo miền Tây để cứu dân khỏi nạn đói thời kỳ tập trung quan liêu bao cấp. Lữ Minh Châu – một tổng giám đốc (Thống đốc) Ngân hàng Quốc gia Việt Nam đã chủ động, năng động, táo bạo tổ chức in tiền tại chỗ để chống lạm phát; một Trưởng ban Quản lý các Khu chế xuất – Khu công nghiệp mở đầu cho cơ chế “một cửa” nhằm thu hút đầu tư nước ngoài… Chú ra đi để lại nhiều thương nhớ cho bao người, trong đó có chúng tôi – những người từng tham gia công tác từ những ngày đầu xây dựng khu chế xuất, khu công nghiệp vào thập niên 1990. Những năm đầu thập niên 1990 nhiều trọng án tài chính tín dụng ngân hàng đã xảy ra, một số vị là giám đốc, phó giám đốc ngân hàng chuyên doanh của Nhà nước bị bắt, phải ra tòa và có vị phải “dựa cột”. Một lần gặp chú Ba Châu tại trụ sở Ban Quản lý, chú nói với tôi như một lời than phiền: “Bé nè, hồi kháng chiến và kể cả khi tiếp quản Sài Gòn, chú quản lý trong tay biết bao triệu đô, biết bao tỷ đồng mà không mất một xu. Vậy mà bây giờ, chính quyền của ta, ban bệ đầy đủ mà cứ để thất thoát!”. Lúc bấy giờ tôi còn trẻ, hiểu biết không nhiều nên chỉ cười trừ. Thế mới biết dù đổi mới thể chế, xác lập cơ chế tiên tiến vẫn phải luôn luôn gắn chặt với việc bố trí, đào tạo, sử dụng con người đủ phẩm chất, đạo đức và năng lực.
Huyền tích “buôn tiền”
Lúc đầu, việc chuyển tiền vào Nam được phối hợp với Bộ Quốc phòng vận chuyển bằng ô tô (tiền đóng vào hòm kẽm) theo đường Trường Sơn. Mỗi chuyến mất hàng tháng, có khi bị địch đánh cháy. Có khoảng 4 triệu đôla bị cháy và hàng chục chiến sĩ ta đã hy sinh. Từ năm 1967, tiền đưa vào cặp ngoại giao, vận chuyển qua đường hàng không Air France, từ Hà Nội, Quảng Châu, Phnom Penh rồi đưa về Tây Ninh. Đi đường này mất khoảng hơn 6 giờ và thực hiện được trong 4 năm. Sau này, việc chuyển tiền không chuyển trực tiếp bằng tiền mặt nữa mà chuyển bằng con đường FM. Với cách chuyển tiền qua FM, quân ta đã chuyển hàng trăm triệu đôla viện trợ thành tiền Sài Gòn. Trong đường dây này, ông Ba Châu được biệt phái vào công tác trong một ngân hàng Sài Gòn. Tại đây, ông móc nối với một nhà tư sản có môn bài xuất nhập cảng hàng chục ngành nghề và có chân trong nhiều doanh nghiệp chuyên kinh doanh vàng từ Hồng Công, Singapore và các nước. Với cách làm này, các thanh toán được thực hiện chưa đầy 30 phút. Sau đó, chú Ba Châu tổ chức chuyển tiền để chi cho chiến trường, ngụy trang bằng những chiếc xe chở gạo, bia, nước ngọt… Trong đường dây chuyển tiền có cha của ông – ông Lữ Văn Buổi, cán bộ tiền khởi nghĩa, đóng vai thương nhân người Hoa, nhận chuyển tiền cho Khu 8, Khu 9. Ông có quan hệ với khoảng 200 ngân hàng ở Hồng Công, Paris, London… Nhiều năm chuyển tiền bằng điện hối, séc cầm tay, không để xảy ra sơ suất nào.
Ông Nguyễn Văn Bé kể tiếp: Năm 2006, tôi gặp đồng nghiệp là anh Trần Việt Hùng đang là phó tổng giám đốc công ty Liên doanh KCX Tân Thuận, anh kể lại: “Hồi kháng chiến tôi là lính của chú Ba Châu. Hồi ấy tôi còn nhỏ, theo các chú công tác trong Ban Kinh tài. Tôi còn nhớ chuẩn bị cho chiến dịch tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, dọc theo biên giới khu vực An Giang, đơn vị tôi đào hầm, bí mật cất giấu rất nhiều tiền, đựng trong các “thùng đại liên” bằng sắt của Mỹ, chủ yếu là tiền “đô” rồi tiền Sài Gòn, tiền “ria” (riel), tiền “bạt” (baht) đủ cả. Sau đó còn có tiền của Mặt trận Giải phóng được niêm theo từng bao ni lon 2 lớp bỏ trong thùng nhựa 20 lit, hàn lại”. Một sự kiện tôi còn nhớ, tháng 4 năm 1970, trong lần giải cứu một lượng tiền khá lớn trót lọt khi Lonnol làm đảo chánh Sihanouk ở Campuchia, Lonnol chủ trương cáp duồng tàn sát Việt Kiều. Một khối tiền “đô”, tiền “ria” của Trung ương Cục còn kẹt lại kho hàng của cơ sở thương gia tại Phnom Penh. Chú Ba Châu giả dạng thương gia Hoa Kiều đã làm một cuộc giải cứu ngoạn mục. Chú tổ chức đào tiền từ hầm bí mật đem lên cho vào các hũ mắm bù-hốc chất đầy 2 xe tải. Xe chạy về hướng Đông Nam thoát khỏi vòng vây của quân Lonnol. Đơn vị tôi đón tại vùng núi biên giới giáp Kiên Giang và vận chuyển cất giấu tiền an toàn cho Trung ương Cục. Chỉ hai ngày sau Mỹ và quân đội Sài Gòn mở “trận càn Đông Dương” hành quân tràn qua biên giới. Lúc bấy giờ, chú Ba chọn tôi về công tác tại Ban Tài chính đặc biệt của Trung ương Cục. Đây được xem như một phi vụ anh hùng của chú Ba Châu và đồng đội.
Rạng ngời ngọc quý minh châu
Theo lời ông Nguyễn Văn Bé và nhiều người khác: Ông Ba Châu cực kỳ khiêm tốn, không bao giờ kể lại thành tích của mình trong hoạt động cách mạng. Nói đến công lao mình, ông cho rằng “bé tí tẹo”, không có gì để viết! Nhà báo Hoàng Hải Vân đeo bám suốt hai năm trời mới được ông cho biết và cho phép viết về một số sự kiện, câu chuyện với nhiều tình tiết cụ thể được đăng tải trên báo Thanh niên từ ngày 4/10 đến 30/10/2006. “Thời đó và kể cả sau này về công tác tại Ban Quản lý các khu chế xuất và công nghiệp TP.HCM, chẳng bao giờ tôi nghe chú nói về công lao thành tích! Ngày 30/4/1975, chú Ba Châu làm Trưởng ban quân quản các ngân hàng Sài Gòn – Gia Định, tiếp quản toàn bộ tiền vàng chế độ cũ. Khi tiếp quản còn trên 1.000 tỷ đồng tiền giấy, gấp đôi lượng tiền lưu hành thời điểm đó (615 tỷ đồng, trong đó tiền mặt là 440 tỷ đồng, còn lại là tiền gửi), lưu thông cho đến khi đổi tiền năm 1976. Số vàng còn ở trong kho đã trở thành tài sản quốc gia. Với 87 tuổi đời, Huy hiệu 65 năm tuổi Đảng, chú Ba Châu ra đi trong niềm tiếc thương của mọi người. Trong dòng người đến tiễn ông đều có chung cảm nhận đây là một con người có công và liêm khiết. Khi nói về người bạn đời, cô Trần Ngọc Điệp chỉ nói ngắn gọn: Chú Ba là một con người chung thủy và luôn đặt lợi ích chung lên trên”, ông Bé kể tiếp.
Ông Lữ Minh Châu đã ra đi nhưng vẫn còn đây một nhân cách, một con người với biết bao điều mà thế hệ sau phải tìm tòi, học hỏi và noi gương. Qua các tác giả Thăng Long, Nguyễn Quang Sáng, Hiền Phương, Thanh Giang, Hoàng Xuân Huy, Hoàng Hải Vân, Phạm Phương Thảo… chắc còn nhiều điều, nhiều câu chuyện, nhiều tác phẩm viết về Lữ Minh Châu, về đồng đội đồng chí của ông, về trận chiến tiền tệ âm thầm lặng lẽ nhưng rất ác liệt mà ít người biết đến, về “đường dây buôn tiền lịch sử” có một không hai trong lịch sử chiến tranh thế giới, về đường đi của đồng đô la từ mọi nguồn tài lực để đến với chiến trường miền Nam nhằm cung ứng cho cuộc kháng chiến thần thánh – nói theo cách nói của phương Tây, về tổ chức Ban Tài chính đặc biệt – Đơn vị được truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân… Trong mắt của nhiều người, ông Lữ Minh Châu xứng đáng là một anh hùng.
Rất kính trọng chú Ba Châu, một con người có công trạng lớn lại rất ít nói về mình, một hiện thân về nhân cách đẹp, quá đỗi giản dị, chân phương. Chúng ta tưởng nhớ chú Ba Châu, Lữ Minh Châu, tên đẹp như đời người, ông mãi mãi là ngọc sáng trong lòng mỗi chúng ta.
(Tham khảo tài liệu và hình ảnh cung cấp từ ông Nguyễn Văn Bé – Chủ tịch Hiệp hội các doanh nghiệp Khu Công nghiệp TP.HCM)
Nguồn: Báo Môi Trường và Đô Thị