Các cam kết về khí hậu từ COP26 được các quốc gia thực hiện như thế nào ?
Các cam kết về khí hậu từ COP26 được các quốc gia thực hiện như thế nào ?
Tại COP26 ở Glasgow năm ngoái, các nhà lãnh đạo thế giới đã cam kết ngừng phá rừng, loại bỏ dần các khoản trợ cấp nhiên liệu hóa thạch và cung cấp nhiều viện trợ khí hậu hơn. Vậy họ đã làm gì để thực hiện những cam kết đó ?
Một năm trước, tại Hội nghị thượng đỉnh về biến đổi khí hậu của Liên Hợp Quốc ở Glasgow (COP26), các nguyên thủ quốc gia và lãnh đạo doanh nghiệp đã đưa ra một danh sách dài những lời hứa hữu ích giúp chống lại sự nóng lên toàn cầu.
Nhưng khi COP 27 diễn ra ở Sharm el Sheikh, Ai Cập trong tuần này, nhiều quốc gia và công ty đã chỉ dừng lại tiến độ đối với các mục tiêu mà họ đặt ra, như kiềm chế nạn phá rừng hoặc tăng lượng viện trợ khí hậu cho các quốc gia nghèo hơn. Trong một số trường hợp, các chính phủ đang từ chối những lời hứa vì chiến tranh, thiếu hụt năng lượng và lạm phát đã làm lu mờ những lo ngại về khí hậu.
Các chuyên gia cho biết, trọng tâm của các cuộc đàm phán năm nay sẽ là tìm ra cách các quốc gia có thể tuân theo cam kết của họ. Không giống như các cuộc đàm phán về khí hậu trước đây, không còn các cuộc đàm phán lớn liên quan đến hiệp ước.
Kaveh Guilanpour, phó chủ tịch tại Trung tâm Giải pháp Năng lượng và Khí hậu cho biết: “Những gì chúng ta đang phải đối mặt hiện nay là công việc rất khó khăn trong việc thực hiện những lời hứa đã được đưa ra”.
Dưới đây là những lời hứa được đưa ra vào năm ngoái ở Glasgow và những gì mà các quốc gia đã thực hiện cho đến nay:
Cắt giảm lượng khí thải nhanh hơn
Tại Glasgow, các nhà lãnh đạo thế giới nhất trí rằng các quốc gia không cắt giảm lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính đủ nhanh để tránh mức độ ấm lên nguy hiểm và kêu gọi các chính phủ xem xét lại và củng cố các kế hoạch khí hậu của họ trong năm tới nếu khả thi. Kể từ đó, chỉ có 24 quốc gia đã làm như vậy.
Các chuyên gia đã tính toán rằng tất cả các kế hoạch được đệ trình cho đến nay sẽ khiến thế giới nóng lên khoảng 2,5 độ C (4,5 độ F) trong thế kỷ này, so với mức trước công nghiệp. Đó là một sự cải thiện nhẹ so với ước tính của năm ngoái, nhưng nó cao hơn nhiều so với thỏa thuận Paris nhằm hạn chế sự nóng lên ở mức 1,5 độ C để giảm thiểu nguy cơ xảy ra các đợt nắng nóng chết người, mực nước biển dâng, sụp đổ hệ sinh thái và các thảm họa khác.
Simon Stiell, thư ký điều hành Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu cho biết: “Các quốc gia đã đạt được một số tiến bộ trong năm nay. Nhưng chúng ta vẫn chưa đạt được quy mô và tốc độ giảm phát thải cần thiết.” Ông nói thêm rằng điều đáng thất vọng là rất ít quốc gia nỗ lực tăng cường các kế hoạch của họ.
Australia và Indonesia đã đệ trình các mục tiêu đầy tham vọng hơn để hạn chế khí nhà kính. Hoa Kỳ dự kiến sẽ không cập nhật mục tiêu cắt giảm 50% lượng khí thải xuống dưới mức năm 2005 vào năm 2030, vốn đã được công bố trước Glasgow, nhưng họ đã phê duyệt 370 tỷ đô la chi tiêu năng lượng sạch mới nhằm đạt được hầu hết các chặng đường đạt được mục tiêu đó. Trung Quốc, nước phát thải lớn nhất thế giới, vẫn chưa cho biết liệu họ có cập nhật mục tiêu của mình hay không.
Loại bỏ trợ cấp nhiên liệu hóa thạch
Các nước cũng đồng ý tại Glasgow để đẩy nhanh việc triển khai năng lượng sạch trong khi tiến tới cắt bỏ dần điện than và cắt bỏ dần các khoản trợ cấp của chính phủ đối với nhiên liệu hóa thạch.
Nhưng kết quả họ đạt được không như kì vọng. Năng lượng sạch đang tăng mạnh: Lượng điện được tạo ra từ các nguồn carbon thấp như tuabin gió, pin mặt trời và đập thủy điện đã tăng hơn 10% trên toàn cầu trong năm nay. Theo công ty tư vấn Rystad Energy, đầu tư vào năng lượng tái tạo sẽ đạt 494 tỷ USD, vượt qua mức đầu tư vào hoạt động khoan dầu khí lần đầu tiên .
Nhưng mặt khác, việc sử dụng than cũng tăng vọt lên mức cao kỷ lục trong năm nay , phần lớn là do diễn biến quân sự giữa Nga và Ukraine khiến giá khí đốt tự nhiên tăng đột biến. Đức và Áo đã mở lại các nhà máy điện than đã đóng cửa trước đây. Trung Quốc đã phê duyệt các mỏ than mới, mặc dù nước này cũng đã ngừng 26 trong số 104 nhà máy than mà nước này dự kiến xây dựng ở nước ngoài. Trong khi các nhà dự báo vẫn dự đoán rằng việc sử dụng than toàn cầu sẽ giảm trong thập kỷ này khi năng lượng sạch phát triển, nhưng điều đó vẫn chưa xảy ra.
Về phần mình, các khoản trợ cấp nhiên liệu hóa thạch vẫn đang tăng lên. Theo Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế, vào năm 2021, các quốc gia đã chi 697 tỷ USD để khuyến khích khoan dầu khí hoặc giảm giá xăng dầu và nhiên liệu sưởi ấm cho người tiêu dùng. Con số này dự kiến sẽ tăng trở lại trong năm nay khi các chính phủ chi hàng tỷ USD để cố gắng bảo vệ công dân của họ khỏi giá năng lượng tăng.
Tăng viện trợ cho các nước nghèo hơn
Năm 2009, các quốc gia giàu nhất thế giới cam kết tài trợ 100 tỷ đô la mỗi năm cho khí hậu vào năm 2020 để giúp các quốc gia nghèo hơn chuyển sang các nguồn năng lượng sạch hơn và thích ứng với hậu quả của sự nóng lên toàn cầu. Tại Glasgow, các quốc gia giàu có thừa nhận rằng họ vẫn chưa đạt được mục tiêu đó nhưng đã cam kết sẽ đạt được mục tiêu đó vào năm 2023. Họ cũng hứa sẽ tăng gấp đôi số viện trợ dành cho thích ứng với khí hậu, lên khoảng 40 tỷ USD mỗi năm vào năm 2025.
Nhưng cuối cùng không rõ liệu các nước giàu có đạt được những mục tiêu đó hay không.
Theo một ước tính chính thức , Hoa Kỳ, Liên minh Châu Âu, Ngân hàng thế giới đã cung cấp chung 83,3 tỷ đô la tài chính cho khí hậu vào năm 2020. Và thậm chí điều đó có thể phóng đại số lượng viện trợ được cung cấp: Các nhóm bên ngoài như Oxfam đã lập luận rằng một số khoản tiền đó có thể không dành cho các dự án biến đổi khí hậu và khó theo dõi.
Trong một báo cáo tiến độ gần đây, Canada và Đức đều nêu chi tiết các bước cụ thể mà họ đang thực hiện để tăng viện trợ khí hậu và khẳng định rằng các quốc gia giàu có nói chung có thể đáp ứng các mục tiêu tài chính của họ. Nhưng tại Hoa Kỳ, việc tăng cường hỗ trợ nước ngoài đang gặp thách thức về mặt chính trị: Năm ngoái, các đảng viên Đảng dân chủ tại Thượng viện đã tìm kiếm 3,1 tỷ đô la tài chính bổ sung cho khí hậu cho năm 2022, nhưng chỉ đảm bảo được 1 tỷ đô la.
Giảm lượng khí thải metan
Tại Glasgow, hơn 100 quốc gia đã ký cam kết tự nguyện cắt giảm phát thải khí metan 30% vào năm 2030. Các nhà khoa học nói rằng việc hạn chế metan – một loại khí nhà kính mạnh sinh ra từ các hoạt động khai thác dầu khí, chăn nuôi – có thể là một cách nhanh chóng để hạn chế sự gia tăng nhiệt độ toàn cầu trong thời gian ngắn.
Hầu hết các quốc gia chỉ mới bắt đầu. Tại Hoa Kỳ, Cơ quan bảo vệ môi trường đã đề xuất nhưng chưa hoàn thiện các quy định mới nhằm giảm phát thải khí metan từ các hoạt động khai thác dầu khí, trong khi Quốc hội cung cấp 4,7 tỷ đô la để bịt các giếng cũ rò rỉ. Mùa hè năm nay, Hoa Kỳ và Liên minh Châu Âu cũng đã công bố quan hệ đối tác mới với các quốc gia như Canada, Nhật Bản, Nigeria, Mexico để đầu tư gần 60 triệu USD vào nỗ lực bịt các lỗ rò rỉ khí metan và giám sát khí thải bằng vệ tinh.
Tuy nhiên, hàng chục quốc gia khác đã ký cam kết vẫn chưa cung cấp chi tiết về cách họ có kế hoạch xử lý khí metan, theo một phân tích gần đây của Viện Tài nguyên thế giới.
Căng thẳng địa chính trị gia tăng cũng làm chậm lại tiến độ: Một trong những diễn biến chính ở Glasgow là một thỏa thuận mới giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc nhằm cùng nhau hạn chế phát thải khí mettan. Nhưng Trung Quốc đột ngột ngừng mọi hợp tác về khí hậu giữa hai nước ngay sau khi Chủ tịch Hạ viện Nancy Pelosi thăm Đài Loan vào tháng 8 .
Chấm dứt nạn phá rừng
Hơn 130 quốc gia cũng cam kết tại Glasgow sẽ ngăn chặn và đảo ngược nạn phá rừng vào năm 2030 và cam kết hàng tỷ đô la cho nỗ lực này. Đó là Brazil, Indonesia và Cộng hòa Dân chủ Congo, nơi có hầu hết các khu rừng nhiệt đới trên thế giới.
Cho đến nay, thế giới vẫn chưa đạt được mục tiêu đó. Theo một báo cáo gần đây của Diễn đàn tuyên bố rừng, số lượng phá rừng toàn cầu đã giảm 6,3% từ năm 2020 đến năm 2021. Đó là một tin tốt. Tin xấu là nạn phá rừng sẽ cần giảm nhanh hơn nhiều, khoảng 10% mỗi năm, để các quốc gia đạt được mục tiêu năm 2030.
Một số quốc gia, bao gồm Indonesia, Malaysia, Bờ Biển Ngà và Ghana, đã đạt được tiến bộ lớn trong việc bảo vệ rừng của họ. Sau khi xảy ra cháy rừng và than bùn trên diện rộng vào năm 2016, Indonesia đã đưa ra các quy định cứng rắn hơn đối với ngành công nghiệp dầu cọ của mình, trong khi các tập đoàn phải đối mặt với áp lực giảm nạn phá rừng.
Một câu chuyện khác ở Congo, nơi chính phủ năm nay đã bán đấu giá những khu rừng nhiệt đới lớn của họ để khoan dầu. Động thái này được đưa ra sau khi các nhà tài trợ quốc tế cam kết hỗ trợ 500 triệu USD để giúp nước này hạn chế nạn phá rừng. Với giá dầu thô tăng cao, Congo đã thay đổi các ưu tiên của mình, khẳng định rằng cần phát triển dầu để tăng trưởng kinh tế.
Nạn phá rừng ở Amazon đã gia tăng sau khi Tổng thống Jair Bolsonaro nhậm chức vào năm 2019 và cắt giảm tài trợ cho bảo vệ môi trường. Tổng thống mới đắc cử của đất nước, Luiz Inácio Lula da Silva, đã giám sát sự suy giảm nạn phá rừng trong lần cuối cùng ông cầm quyền, từ năm 2003 đến năm 2010, và đã hứa sẽ làm như vậy một lần nữa, mặc dù các nhà phân tích cho rằng việc này sẽ không dễ dàng.
Nguồn: Báo Môi Trường và Đô Thị