Bộ Y tế ban hành hướng dẫn chẩn đoán và điều trị bệnh béo phì
Bộ Y tế ban hành hướng dẫn chẩn đoán và điều trị bệnh béo phì
Theo Bộ Y tế, béo phì gây ra các vấn đề trầm trọng đến sức khỏe, là thủ phạm gây hơn 200 bệnh như bệnh tim mạch, đột quỵ, đái tháo đường, thoái hóa khớp, gan nhiễm mỡ và nhiều bệnh ung thư, đặc biệt là ung thư đường tiêu hóa…
Bộ Y tế vừa ban hành Quyết định số 2892/QĐ-BYT về hướng dẫn chẩn đoán và điều trị bệnh béo phì. Theo đó, Bộ Y tế đánh giá, bệnh béo phì là nguyên nhân dẫn đến các vấn đề trầm trọng đến sức khỏe, là thủ phạm gây hơn 200 bệnh khác nhau như: Tim mạch, đột quỵ, đái tháo đường, thoái hóa khớp, gan nhiễm mỡ và nhiều bệnh ung thư, đặc biệt là ung thư đường tiêu hóa…
Béo phì được xác định là một bệnh mạn tính. Người bệnh cần được theo dõi và tái khám thường xuyên để ngăn ngừa tăng cân trở lại và để theo dõi nguy cơ bệnh tật cũng như có phương án điều trị các bệnh cùng mắc nếu xuất hiện (như đái tháo đường týp 2, bệnh tim mạch).
Lối sống của người Việt Nam thay đổi rất nhiều trong những năm gần đây như ít vận động hơn, trong chế độ ăn có nhiều muối, ăn nhiều mì ăn liền, uống nhiều nước ngọt, ăn ít rau và hải sản. Một thống kê tại Việt Nam trong năm 2021 cho thấy, gần 20% người thừa cân, béo phì trên cả nước sống ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Điều đáng nói, tỷ lệ thừa cân, béo phì ở trẻ em tuổi học đường (5-19 tuổi) tăng từ 8,5% năm 2010 lên 19% vào năm 2020, trong đó khu vực thành thị là 26,8%, nông thôn là 18,3% và miền núi là 6,9%…
Nguyên nhân dẫn đến béo phì
Theo Bộ Y tế chuyên gia, nguyên nhân dẫn đến béo phì do tăng quá mức lượng năng lượng ăn vào; ăn một lượng thức ăn nhiều hơn nhu cầu của cơ thể; chế độ ăn giàu chất béo.
Trẻ em tiêu thụ quá nhiều chất ngọt làm tăng nguy cơ béo phì hoặc nuôi con bằng sữa mẹ ít hơn 3 tháng thường đi kèm với tăng nguy cơ béo phì ở trẻ em khi đến trường.
Ngoài ra, còn có nguyên nhân do di truyền, hay do nội tiết như bệnh lý ác tính, viêm nhiễm, hội chứng béo phì, suy giáp, nguyên nhân mô bệnh học, nguyên nhân do dùng thuốc…
Bộ Y tế cũng đưa ra 3 cách chẩn đoán béo phì, đó là chỉ số khối cơ thể (BMI – Body mass index); vòng bụng (béo phì dạng nam (béo phì phần trên cơ thể, béo phì kiểu bụng, béo phì hình quả táo, béo phì trung tâm) khi vòng bụng ≥ 90 cm ở nam và ≥80 cm ở nữ); phương pháp DEXA hấp thụ năng lượng kép.
Bộ Y tế cũng khuyến cáo, để giảm cân mang lại lợi ích cho sức khỏe, có thể giảm cân 5-15% trong khoảng thời gian 6 tháng. Đối với những người có mức độ béo phì cao hơn (BMI ≥ 35 kg/m2) có thể cân nhắc giảm cân nhiều hơn (20% trở lên).
Cùng đó, cần duy trì giảm cân, phòng ngừa và điều trị các bệnh đồng mắc là hai tiêu chí chính để thành công.
Bộ Y tế cũng nêu rõ: Can thiệp lối sống là nền tảng đảm bảo duy trì giảm cân bền vững, an toàn bao gồm các biện pháp can thiệp dinh dưỡng, tập luyện thể lực, thay đổi hành vi, hỗ trợ tâm lý.
Điều trị bằng thuốc khi can thiệp lối sống trong 3 tháng không giúp giảm được 5% cân nặng, người bệnh có BMI ≥ 25 kg/m2.
Phối hợp chặt chẽ của nhiều chuyên khoa để đạt được hiệu quả điều trị và duy trì giảm cân đạt yêu cầu bền vững.
Trong hướng dẫn mới ban hành, Bộ Y tế đưa ra 3 cách chẩn đoán béo phì.
– Chỉ số khối cơ thể (BMI- Body mass index)
Chiều cao đứng: được đo bằng thước. Người được đo đứng thẳng trong tư thế thoải mái, mắt nhìn về phía trước, hai gót chân sát nhau chụm lại thành hình chữ V, đo một đường thẳng từ đỉnh đầu đến gót chân. Kết quả tính bằng đơn vị mét và sai số không quá 0,1 cm.
Trọng lượng cơ thể: Cân nặng: Người được đo mặc quần áo mỏng nhẹ, bỏ guốc dép và đứng lên cân theo đúng vị trí, chỉ số trên màn hình sẽ báo trọng lượng cơ thể. Đo trọng lượng cơ thể chính xác đến 0,1 kg. Đơn vị biểu thị trọng lượng: kg.
BMI (kg/m2) = Cân nặng (tính bằng kg) chia cho bình phương của chiều cao (tính bằng mét).
Ví dụ: 1 người nặng 48kg, cao 1,57m, BIM = 48: (1,57×1,57) = 19,4.
– Vòng bụng
Dụng cụ sử dụng thước dây chia vạch do Việt Nam sản xuất đạt tiêu chuẩn của Cục đo lường Việt Nam.
Cách đo: Bệnh nhân đứng thẳng hai chân, hai bàn chân cách nhau 10cm, trọng lượng cơ thể đều trên hai chân, bộc lộ vùng đo, cho bệnh nhân thở đều đặn, đo lúc thở ra nhẹ, tránh co cơ.
Vòng bụng: được đo ngang qua đường giữa bờ trên xương chậu và bờ dưới xương sườn cuối cùng. Sai số không quá 0,1 cm. Kết quả tính bằng centimet (cm).
Đánh giá kết quả: béo phì dạng nam (béo phì phần trên cơ thể, béo phì kiểu bụng, béo phì hình quả táo, béo phì trung tâm) khi vòng bụng ≥ 90 cm ở nam và ≥80 cm ở nữ.
– Phương pháp DEXA hấp thụ năng lượng kép
Các phương pháp điều trị béo phì theo khuyến cáo của Bộ Y tế
Tại hướng dẫn này, Bộ Y tế cũng khuyến cáo các phương pháp điều trị béo phì như: Về chế độ ăn cần cân đối giữa các chất sinh nhiệt, không quá nhiều glucid, tỷ lệ thay đổi tùy cá thể theo bệnh lý mắc kèm, thói quen ăn uống; Cung cấp đầy đủ các vitamin cần thiết: vitamin tan trong dầu, kali, sắt, acid amin.
“Hạn chế số bữa ăn trong ngày (3 bữa là đủ), hạn chế ăn loại glucid hấp thu nhanh và các chất béo bão hoà, muối dưới 5g/ngày; đồng thời kiêng rượu”- Bộ Y tế lưu ý.
Bên cạnh đó, có thể tập vào bất kỳ thời điểm nào trong ngày, miễn là phù hợp với nếp sinh hoạt của mình. Mỗi ngày trung bình 30 – 40 phút. Hoặc vận động nhiều lần trong ngày, mỗi lần tối thiểu 10 phút. Nên vận động tối thiểu 5 ngày/tuần, tốt hơn nên tập đều đặn mỗi ngày.
Việc tập thể dục áp dụng tùy theo tuổi và các biến chứng đã có ở bệnh nhân hay không, tập thể lực rất hữu ích mặc dù tiêu tốn năng lượng tương đối ít trong khi tập luyện.
Tập luyện hoạt động thể chất sức bền là một biện pháp thiết yếu trong các chương trình giảm cân cho người béo phì. Nên thực hiện các bài tập cường độ trung bình ít nhất 150 phút mỗi tuần, 3 đến 5 lần một tuần, bắt đầu bằng bài tập cường độ thấp và tăng dần cường độ và số lượng tập thể dục theo mức độ thể dục cá nhân.
Tập luyện đề kháng nên được áp dụng trong các chương trình giảm cân để tăng khối lượng cơ và thúc đẩy giảm mỡ cơ thể, và được đề nghị thực hiện bằng các bài tập sử dụng các nhóm cơ lớn 2-4 lần một tuần.
Trong bảng tham khảo năng lượng kcalo tiêu thụ được sau 30 phút tập thể dục, các chuyên gia cũng chỉ rõ với người nặng 50kg có thể tiêu thụ 260kcalo bằng cách chạy bộ 10km/h, trong khi đó tập tạ (ở mức độ trung bình) chỉ tiêu hao 79kcalo; cầu lông là 119kcalo, bi-a 66kcalo, bôi lội ở mức 25m/phút cũng chỉ giảm 123kcalo… Tuy nhiên nhảy dây trong 30phút được coi là tiêu thụ năng lượng nhiều nhất với 264kcalo./.
Nguồn: Báo Môi Trường và Đô Thị