Xây dựng đô thị bền vững, kỳ vọng của các thành phố VN 10 – 15 năm
Xây dựng đô thị bền vững, kỳ vọng của các thành phố VN 10 – 15 năm
Đô thị bền vững là đô thị trong đó các Hệ sinh thái tự nhiên và nhân tạo có đủ điều kiện để bảo tồn, tái tạo và phát triển, nhờ đó môi trường sống được cân bằng, trong sạch, vệ sinh.
1. Đô thị bền vững/Đô thị xanh, đô thị thông minh
Đô thị bền vững
Danh từ Đô thị bền vững ra đời sau khi các tổ chức liên hiệp quốc (LHQ) thống nhất đưa ra khái niệm “Phát triển bền vững / Sustainable development” năm 1991. Đặc biệt, khi Hội nghị thượng đỉnh trái đất về môi trường và phát triển năm 1992 thông qua “Chương trình nghị sự 21 (Agenda 21)”, sau đó 179 nước tham gia cam kết tuân theo và phê chuẩn các “Chương trình phát triển bền vững” của nước mình. Trong ba nội dung cơ bản của phát triển bền vững, thì nội dung đầu tiên là bền vững hệ sinh thái (Ecological Sustainability), trong đó đòi hỏi bảo tồn các hệ thống trợ giúp cho sự sống, bền vững môi trường (Environmental Sustainability), bền vững xã hội (Social Sustainability) [1,2].
Đô thị bền vững là đô thị trong đó các Hệ sinh thái tự nhiên và nhân tạo (do con người tạo ra) có đủ điều kiện để bảo tồn, tái tạo và phát triển, nhờ đó môi trường sống được cân bằng, trong sạch, vệ sinh.
Gần 1,5 thế kỷ qua, đô thị hóa đang phát triển rất nhanh trên thế giới. Năm 1880 mới chỉ có 4% dân số thế giới sống trong các đô thị. Hai mươi năm sau, năm 1900, dân số đô thị đã tăng lên 14%. Năm 2000 có 2,8 tỷ người (~47%) sống ở các đô thị, và năm 2007 có hơn 50% dân số thế giới (3,2 tỷ người) sống ở các đô thị (thống kê LHQ). Theo dự báo của LHQ và Ngân hàng thế giới (WB) tới năm 2025 sẽ có 2/3 dân số thế giới, khoảng 5 trong 8 tỷ người, sống trong các đô thị. Một dự báo khác, năm 2050 trên thế giới sẽ có 85% dân số sống trong các thành phố.
Tuy nhiên điều lo lắng nhất của thế giới hiện nay là Đô thị hóa đòi hỏi nhu cầu xây dựng các công trình nhà ở, giao thông, phục vụ văn hóa đời sống càng lớn, điện năng từ đốt nhiên liệu hóa thạch để phục vụ con người tiêu thụ ngày càng nhiều, thải vào khí quyển Carbon dioxide (CO2), là “khí nhà kính / Greenhouse Gas” (GHG) chủ yếu, làm nóng Trái đất, gây ra Biến đổi khí hậu (Climate Change). Thống kê cho thấy, trong thế kỷ 20 năng lượng hóa thạch tiêu thụ trên thế giới đã tăng 17 lần (riêng Nhật Bản tăng 74 lần).
Trước 1990 Mỹ đứng đầu thế giới về phát thải khí nhà kính với 18%, tiếp theo là SNG (13,5%); EU (12 nước – 11,5%), Trung Quốc (9,3%), Nhật (4,7%); Ân Độ (4%). Đến năm 2010, Trung Quốc vươn lên đứng đầu (6018 tr. tấn CO2 /năm), tiếp theo là Mỹ – 5903 tr. tấn, Nga – 1704 tr. tấn, Ấn Độ – 1293 tr. tấn, Nhật Bản – 1247 tr. tấn, …
Dự báo tiêu thụ năng lượng hóa thạch tiếp tục tăng trong thế kỷ 21, đặc biệt ở châu Á.
Thế kỷ 20 Trái đất đã ấm hơn 1oC. Các nhà khoa học tính rằng, nếu nồng độ CO2 trong khí quyển đạt 450 ppm (năm 2015 đã đạt 400 ppm) thì nhiệt độ trái đất sẽ tăng thêm 2oC, và với sự kinh doanh như hiện nay của các tập đoàn kinh tế lớn, thì khả năng này có thể xảy ra vào năm 2035! Vì vậy LHQ đã phát động “Chiến dịch 350 – Chiến dịch toàn cầu chống biển đổi khí hậu”, nhằm mục tiêu giảm lượng CO2 trong không khí xuống giới hạn an toàn cho trái đất là 350 ppm (nồng độ năm 1990).
Đô thị hóa cũng làm mất đất canh tác, phá hủy rừng cây, lấp kín nhiều ao hồ. Tại nước Anh trong thế kỷ 20 đã mất 20% đất nông nghiệp, làm suy thoái tài nguyên, còn chất thải đô thị làm xấu môi trường sống của con người. Các nhà khoa học cảnh báo: Các đô thị sẽ “ngốn” một vùng đất có diện tích tương đương Nam Phi (1,2 triệu km2), phá hủy các sinh cảnh, tiêu diệt khoảng 200 loài sinh vật và làm giảm số lượng thực vật. Nghiên cứu cũng dự đoán châu Á sẽ là lục địa mất nhiều đất nhất vì sự phát triển của đô thị (55% tổng diện tích đất mà các thành phố lấn chiếm trên toàn cầu).
Đô thị xanh
Khái niệm Đô thị xanh xuất hiện sau khi phong trào CTX ra đời. Tuy nhiên, khi bàn về Đô thị xanh, một tiêu chí quan trọng không thể bỏ qua là “Không gian xanh / Green Space), xét đến tỷ lệ vườn cây và công viên đô thị trên mỗi người dân. Đất nước Singapore chỉ có diện tích 692,7 km2 trong đó 10 km2 là mặt nước, nhưng có tới 66 m2 không gian xanh cho mỗi người, nên đi đâu ta cũng gặp không gian xanh. Thành phố Vienna có 120 m2 không gian xanh cho mỗi người dân, được coi là “thành phố đáng sống nhất (most liveable citie)” châu Âu. Tổ chức Y tế thế giới (WHO) khuyến nghị, xét về sức khỏe cộng đồng, mỗi thành phố tối thiểu phải có 9 m2 không gian xanh cho mỗi người, tốt nhất là 10 – 15 m2. Hà Nội hiện nay chỉ có 0,9 m2/ người, thấp hơn 10 lần khuyến nghị của WHO (Cục phát triển đô thị Bộ Xây dựng: “Quy hoạch chung Hà Nội đến năm 2030 và tầm nhìn đến 2050”) [2].
Như vậy, Đô thị bền vững / xanh phải đạt được một số tiêu chí quan trong nhất: (1) Đô thị tiêu thụ ít năng lượng (xanh về năng lượng), (2) Thải ít khí CO2 (xanh về môi trường), (3) Có tỷ lệ không gian xanh lớn (xanh về môi trường sống), (4) Bảo tồn và tôn tạo hệ sinh thái (xanh về sinh thái).
Khi quan tâm riêng về môi trường và sinh thái, có thể gọi tên Đô thị sinh thái (Ecologic City), nhưng khái niệm Đô thị xanh toàn diện hơn. Đô thị xanh sẽ bảo đảm sự phát triển bền vững, và là Đô thị bền vững, đô thị đáng sống đối với mỗi người dân. Như vậy ta có thể đồng nhất hai khái niệm Đô thị bền vững và Đô thị xanh: Đô thị phải Xanh để Bền vững.
Đô thị thông minh (ĐTTM)
Liên minh châu Âu định nghĩa: “ĐTTM là nơi các mạng và dịch vụ truyền thống được thực hiện hiệu quả hơn với việc sử dụng các công nghệ kỹ thuật số và viễn thông vì lợi ích của người dân và doanh nghiệp… nhờ đó sử dụng tài nguyên tốt hơn, giảm phát thải gây ô nhiễm. ĐTTM đồng nghĩa với mạng lưới giao thông đô thị thông minh hơn, các cơ sở cấp nước và xử lý chất thải được nâng cấp cũng như các cách hiệu quả hơn để chiếu sáng và sưởi ấm các tòa nhà…”.
Như vậy, ĐTTM là đô thị sử dụng dịch vụ công nghệ cao (công nghệ số và viễn thông) trong nhiều hoạt động thiết yếu liên quan đến cuộc sống của người dân (giao thông, quản lý cung cấp nước sạch, năng lượng, chiếu sáng, dịch vụ,…) nhờ đó nâng cao tiện nghi cuộc sống, tiết kiệm thời gian, chi phí và cả năng lượng. Trong giai đoạn công nghệ số đang phát triển và đạt được thành tựu nhẩy vọt, việc xây dựng đô thị thông minh là hết sức cần thiết trong các đô thị [2].
Tuy vậy, ĐTTM khác hoàn toàn với đô thị bền vững, cả về khái niệm và cách thực hành. Mong muốn, Đô thị trước khi trở thành ĐTTM, phải là một đô thị bền vững/ xanh. Đó là đô thị góp phần vào sự phát triển bền vững thế giới và ngăn ngừa thảm họa BĐKH.
2. Công trình xanh và Thành phố công trình xanh (Cities for green buildings)
Phong trào Công trình Xanh thế giới
Khi BĐKH trở thành mối đe dọa nghiêm trọng đối với toàn cầu, và khi Hội nghị thượng đỉnh LHQ thông qua “Công ước khung về BĐKH” (1992), phong trào “Công trình xanh / Green Building” ra đời (năm 1990 – 1995).
Công trình xanh (CTX) hay Tòa nhà xanh (Green Building) là những tòa nhà được xây dựng bảo tồn được hệ sinh thái địa điểm và khu vực, vận hành ít ảnh hưởng xấu đến môi trường đô thị, giảm thiểu tiêu thụ năng lượng hóa thạch, nhờ đó giảm phát thải khí CO2, bảo tồn tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là tài nguyên nước và tạo được môi trường sống tốt nhất cho con người [1].
Năng lượng sử dụng trong công trình xây dựng bao gồm từ việc sản xuất vật liệu, cấu kiện xây dựng, thiết kế và thi công xây dựng công trình, năng lượng vận hành công trình trong suốt cuộc đời, kể cả việc bảo dưỡng, cải tạo, sửa chữa, tới khi phá hủy công trình. Toàn bộ năng lượng này trong tất cả các công trình xây dựng đóng góp khoảng gần một nửa lượng CO2 trong khí quyển.
Theo Hội đồng Công trình xanh Mỹ (USGBC), năng lượng sử dụng hàng năm của nhà ở và nhà thương mại là 39%, cộng thêm năng lượng tự thân khi chế tạo vật liệu xây dựng, vận chuyển chúng đến nơi xây dựng và lắp đặt vào công trình, thì tổng năng lượng tiêu thụ cho nhà cửa là 48%. Nghiên cứu tại Đài Loan cho biết tỷ lệ phát thải CO2 gắn với công nghiệp xây dựng – kiến trúc là trên 40% ở các nước xứ lạnh. Trong khi đó, Hội thảo về CTX châu Phi năm 2010 đánh giá “hoạt động xây dựng công trình đã tiêu hao 56% năng lượng của khu vực”. Như vậy, có thể nói rằng lĩnh vực xây dựng nói chung, và nhà cửa nói riêng, góp khoảng “một nửa nguyên nhân” gây ra biến đổi khí hậu [1].
Vì vậy, trong các Hệ thống đánh giá CTX thế giới, tỷ lệ điểm về giảm tiêu thụ năng lượng thường chiếm 1/3, thậm chí 50% (Hệ thống GM Singapore chiếm 61%). Điểm bảo vệ hệ sinh thái khoảng 20%, điểm của mỗi phần Hiệu quả nguồn nước, vật liệu và môi trường trong nhà khoảng 10%. Như vậy CTX đánh giá toàn diện chất lượng tòa nhà, trong đó phần hiệu quả năng lượng có tỷ lệ điểm cao nhất. CTX chưa đánh giá về chất lượng kiến trúc (thẩm mỹ) công trình.
Ban đầu (những năm 1990 – 2000) Công trình Xanh mới chỉ như một làn sóng (the Wave), đến năm 2006 đã trở thành cơn bão (the Storm) và đến 2009 – 2010 được coi là “Cuộc cách mạng Công trình xanh / The Green Building Revolution” [3]. Ngày nay CTX đã trở thành một Phong trào (Green Buildng Movement) rộng khắp toàn cầu, trong hơn 100 quốc gia. Khẩu hiệu của CTX là “10 hơn một / 10 heads are better than one”, chỉ khi đó, CTX sẽ làm thay đổi môi trường trái đất để cuộc sống con người trên thế giới trở nên tốt đẹp hơn và ngăn chặn Biến đổi khí hậu toàn cầu.
Tại Mỹ năm 2000 có 1.500 tòa nhà xanh, đến năm 2006 đã có 5.000 công trình được cấp chứng chỉ CTX với tổng diện tích sử dụng là 50 triệu m2.
Đài Loan, sau 7 năm thực hành CTX (2000 – 2007) đã tiết kiệm được 432 triệu kWh điện, giảm được 285.000 tấn CO2, tương đương lượng hấp thụ của 950 ha rừng, giảm 18,3 triệu m3 nước sạch.
Singapore năm 2012 đã có 1500 công trình được nhận chứng chỉ CTX, chiếm 21% tổng số lượng các công trình xây dựng. Dự kiến năm 2030 sẽ có 80% công trình đạt chứng chỉ CTX. Tại nước này CTX đã phát triển sang cả lĩnh vực xây dựng hạ tầng và công viên.
Tại Malaysia tới năm 2010 đã có vài trăm công trình đạt chứng chỉ CTX với tổng diện tích sàn là 50 triệu feets vuông.
Ấn Độ với khởi đầu khiêm tốn năm 2003 đạt 20.000 feet vuông diện tích CTX trên cả nước. Ngày nay (đến tháng 11 năm 2020) đã có hơn 6.222 dự án đăng ký với Hội đồng Công trình Xanh Ấn Độ (IGBC), với diện tích hơn 7,71 tỷ feet vuông (tăng gần 400 lần), trong đó có 2.098 dự án được chứng nhận đạt Chứng chỉ Công trình Xanh.
Báo cáo thường niên năm 2015/2016 của Hội đồng Công trình Xanh Thế giới xác nhận: Đã có 49% Hội đồng CTX các nước thực hiện Hệ thống cấp Chứng chỉ CTX cho các công trình xây dựng ở nước mình với tổng diện tích 1,04 tỷ m2 CTX, bằng 10 lần diện tích của Paris.
Chính vì lẽ đó, năm 2015, tại Hội nghị thượng đỉnh COP 21 Paris, các nhà lãnh đạo thế giới lần đầu tiên công nhận Công trình xanh là giải pháp hiệu quả chống lại Biến đổi khí hậu.
Tại Paris năm 2015, Hội đồng Công trình Xanh Thế giới (WorldGBC) đã phát động “Xây dựng xanh hơn / Better Build Green” và “Hành trình đến tòa nhà phát thải Zero / Journey to Net Zero Emission Buildings” – với mục tiêu “bảo đảm đến năm 2050 tất cả tòa nhà không phát thải khí nhà kính / to make sure that all buildings are net zero carbon by 2050”.
Ba mươi Hội đồng CTX các nước tham dự cam kết chung: Đến năm 2020 sẽ có thêm 1,25 tỷ mét vuông không gian công trình xanh trên thế giới, gấp gần hai lần diện tích của Singapore và đào tạo 127.000 các chuyên gia CTX. Đến năm 2050 sẽ giảm 84 tỷ tấn CO2 cho 8,5 tỷ người trên thế giới và quyết tâm đáp ứng mục tiêu đầy tham vọng: Tất cả các tòa nhà là “không Carbon”.
Phong trào CTX ở Việt Nam
Năm 2007, Hội đồng công trình xanh Việt Nam (VGBC) được thành lập, là một tổ chức phi chính phủ, chi nhánh của Hội đồng CTX California. Năm 2011, VGBC đưa ra Hệ thống đánh giá CTX đầu tiên ở Việt Nam, gọi là Lotus.
Năm 2011 Hội Môi trường xây dựng Việt Nam (MTXDVN) thành lập “Hội đồng công trình xanh Việt Nam (GBCVietnam)”, được sự bảo trợ của Bộ Xây dựng. Hội MTXDVN đã được Bộ xây dựng giao xây dựng “Chiến lược phát triển CTX ở Việt Nam năm 2020 – 2030” và xây dựng “Hệ thống tiêu chí CTX Việt Nam”. Hai đề tài này đã hoàn thành, được Hội đồng khoa học nghiệm thu và bàn giao cho Bộ Xây dựng năm 2014. Bộ Xây dựng cũng giao cho Hội đánh giá thử nghiệm một công trình theo Hệ thống tiêu chí này.
Nhân kỷ niệm ngày Kiến trúc Việt Nam 27/4/2011, Hội KTS Việt Nam đã thành lập Hội đồng Kiến trúc Xanh Việt Nam và ra “Tuyên ngôn Kiến trúc xanh Việt Nam” trong đó nêu rõ Kiến trúc xanh “là hướng phát triển của Kiến trúc Việt Nam vì cuộc sống tốt đẹp của ngày hôm nay, không tổn hại đến cuộc sống mai sau và vì sự phát triển trường tồn của đất nước”. Sau khi công bố các Tiêu chí Kiến trúc xanh Việt Nam, từ năm 2012, cứ hai năm một lần Hội KTS Việt Nam tuyển chọn và trao “Giải thưởng Kiến trúc Xanh” cho các công trình xuất sắc đã xây dựng trên đất nước ta. Nhờ sự cổ vũ này, các KTS Việt Nam đã không ngừng tìm kiếm các giải pháp thiết kế kiến trúc theo “hướng xanh” và cho ra đời nhiều công trình được đánh giá cao không chỉ trong nước, mà cả thế giới [2].
Theo số liệu thống kê tại “Tuần lễ CTX Việt Nam năm 2020” đến quý 3 năm 2020, Việt Nam có 155 dự án đạt Chứng chỉ CTX của EDGE (41 dự án), LEED (83 dự án) và LOTUS (31 dự án) với tổng diện tích sàn là 3.325.000 m2. Lưu ý rằng con số này tính cả các công trình mới trên hồ sơ thiết kế, trong khi chứng chỉ CTX chính thức chỉ tính các công trình đã đưa vào sử dụng ít nhất 2 năm [2].
155 dự án đạt Chứng chỉ CTX ở Việt Nam là con số quá “khiêm tốn”, chứng tỏ CTX ở Việt Nam mới đi những bước đầu tiên, chưa có phong trào hoạt động mạnh mẽ và chưa được sự quan tâm đúng mức của xã hội, trong khi phong trào này đã ra đời và hoạt động được 25 năm trên thế giới. Lưu ý rằng Việt Nam là một trong ba quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của BĐKH.
Một số kinh nghiệm phát triển CTX thế giới
- Phần lớn các nước phát triển trên thế giới coi hoạt động CTX dựa trên nguyên tắc tự nguyện theo hướng thị trường, do các tổ chức phi chính phủ (các Hội đồng CTX) điều hành, đánh giá và cấp chứng chỉ. Vai trò của Chính quyền các địa phương và Chính phủ trung ương là khuyến khích, ủng hộ nhất là ở giai đoạn phát triển đầu tiên (1990 – 2005).
Theo kinh nghiệm phát triển CTX của Mỹ [3], sự ủng hộ của Chính phủ thể hiện:
(1) Nhà đầu tư được ưu tiên vay vốn. Ví dụ Bang Oregon (Mỹ) cho mỗi Công trình có diện tích 10.000 m2 nhận chứng chỉ “Bạch kim” được vay 2$ / foot2.
(2) Giảm thuế: Vài ví dụ:
-
- Bộ luật Nevada năm 2005 giảm thuế tới 50% trong 10 năm đối với công trình đạt chứng chỉ Bạc.
- Chính sách năng lượng Liên bang (Mỹ) năm 2005 có khích lệ giảm thuế cho việc sử dụng điện và nước nóng mặt trời trong nhà ở (bảng 1).
Bảng 1- Chính sách năng lượng Liên bang (Mỹ) năm 2005
(3) Tặng giải thưởng: Bản thân việc gắn Chứng chỉ CTX Bạch kim, Vàng, Bạc hay gắn “Sao xanh” đã là những phần thưởng giá trị, nâng cao uy tín thương hiệu của các chủ đầu tư, Công ty xây dựng. Bên cạnh đó còn có những giải thưởng có giá trị, nhằm biểu dương các chủ đầu tư đã theo đuổi các công nghệ xanh tốt nhất, khuyến khích người thiết kế và xây dựng vươn tới giá trị cao nhất. Ví dụ tại Mỹ:
-
- Tổ chức Kresge của USGBC: Tháng 2/2006 đã trao 64 giải thưởng với số tiền $4.146.000 (TB ~ $70.000 / giải thưởng).
- 42 tổ chức phi lợi nhuận đã trao tổng số tiền thưởng là $7.200.000 (TB ~ $171.000/ dự án).
Ngày nay, khi phong trào CTX đã phát triển mạnh mẽ, các Chủ đầu tư đã nhận thức được vai trò và trách nhiệm với xã hội, với trái đất, các giải thưởng không còn đặt ra nữa.
(4) Ưu tiên hoặc hỗ trợ cấp phép cho các dự án cam kết xây dựng các công trình đạt chứng chỉ Vàng hay Bạch kim.
(5) Đòi hỏi của chính quyền. Ví dụ năm 2001, UB thành phố Seattle lần đầu tiên ở Mỹ ban hành chỉ thị yêu cầu các công trình công cộng mới diện tích trên 500 m2 phải đạt chứng chỉ CTX Bạc. Năm 2004, thành phố Vancouver, Colombia yêu cầu các tòa nhà công cộng mới phải đạt chứng chỉ Vàng. Thống đốc Bang California yêu cầu các công trình muốn được cấp phép xây dựng ở đây phải đạt từ chứng chỉ CTX bạc trở lên (trên bạc là vàng và bạch kim).
- Bên cạnh đó, tại một số nước đang phát triển phong trào CTX lại do Chính phủ trực tiếp lãnh đạo, điều hành, như Đài Loan, Singapore, Trung Quốc, …
Phong trào CTX sẽ phát triển nhanh và mạnh mẽ hơn, khi nhà nước đặc biệt quan tâm và đưa vào các Chương trình lớn, trọng điểm quốc gia. Ví dụ tại Đài Loan: Năm 1999 phong trào CTX bắt đầu khởi động, thì năm 2001 Chính phủ phê chuẩn “Chương trình đẩy mạnh CTX” (GB Promotion Program). Năm 2002 CTX trở thành “Chính sách quốc gia” (National Policy) và được xếp như là phần quan trọng của “Thách thức 2008 – Chương trình trọng đại phát triển quốc gia” (Challanging 2008 – National Major Development Plan) [4]. Nhờ có một bộ máy điều hành tập trung, có năng lực do Bộ Nội vụ trực tiếp lãnh đạo, nên chỉ sau 7 năm đã đạt được thành tựu to lớn và được đánh giá là một trong 3 nước có hoạt động CTX đứng đầu thế giới.
Tại Singapore năm 2005 – 2010 có Chương trình lớn quốc gia về CTX (Green Building Master Plan) lần thứ nhất. Tiếp đó năm 2010 đã ban hành Chương trình CTX tiếp theo cho năm 2010 – 2030 với mục tiêu tới năm 2030 sẽ có 80% công trình đạt chứng chỉ CTX [5].
Thành phố công trình xanh (Cities for green buildings)
Chính quyền nhiều thành phố trên thế giới rất coi trọng vai trò phong trào CTX trong xây dựng thành phố bền vững của mình. Khi thành phố có nhiều tòa nhà xanh, điện năng tiêu thụ toàn thành phố sẽ giảm đáng kể, phát thải khí nhà kính sẽ giảm theo, hệ sinh thái đô thị, tài nguyên bao gồm cả vật liệu và nước được bảo tồn, môi trường đô thị và môi trường sống trong nhà trở nên tốt hơn…
Từ đó có thêm khái niệm “Thành phố CTX / Cities for green buildings”.
Công ty Tư vấn Quản lý Châu Á Solidiance [6] đã đề xuất 4 lĩnh vực Tiêu chí đánh giá xếp hạng các Thành phố thế giới về Thành phố CTX, trong đó ba lĩnh vực tập trung vào tổng số công trình xanh, hiệu suất và sáng kiến, và một lĩnh vực tập trung vào các sáng kiến xanh của thành phố và hiệu suất của chúng. Đó là:
(1) Cảnh quan công trình xanh toàn thành phố (City-wide Green Building Landscape), chiếm tỷ lệ điểm 30%.
Danh mục này đánh giá tổng số tòa nhà xanh ở mỗi thành phố (theo Số tòa nhà xanh và % các tòa nhà xanh so với tổng số tòa nhà), loại chứng chỉ được cấp cho các tòa nhà đó, và số lượng các chuyên gia về CTX đã được chứng nhận trong thành phố.
(2) Hiệu quả và hiệu suất của các tòa nhà xanh / Green Buildings efficiency and performance – tỷ lệ điểm 25%.
Đánh giá bằng cách đo lượng phát thải CO2 và năng lượng sử dụng trong xây dựng của mỗi thành phố: Lượng khí thải CO2 và năng lượng tiêu thụ tổng cộng tính trên đầu người và tính theo GDP.
Sự tiêu thụ nước cũng đã được đánh giá nhưng không đủ dữ liệu đáng tin cậy để đưa vào.
(3) Các chính sách và mục tiêu Công trình xanh xanh / Green Building Policies and Targets – tỷ lệ điểm 12,5%.
Danh mục này xác định các tiêu chuẩn và mục tiêu xây dựng các tòa nhà xanh của thành phố và so sánh chúng với các thành phố toàn cầu.
(4) Văn hoá và Môi trường Thành phố Xanh / Green City Culture and Environment – tỷ lệ điểm 32,5%.
Danh mục này xem xét các sáng kiến xanh cấp thành phố và đánh giá hiệu quả của các sáng kiến đó, thể hiện được văn hóa bền vững của thành phố. Một số tiêu chí cụ thể: – Kế hoạch Hành động về khí hậu, – Mục tiêu giảm phát thải CO2 (%), – Năng lượng tái tạo tiêu thụ của thành phố (%), – Chất thải tái chế của thành phố (%).
Đề xuất:
Trong khi chờ đợi một phong trào CTX phát triển mạnh mẽ trên toàn quốc, chúng ta hãy bắt đầu bằng Phong trào xây dựng “các thành phố CTX / Cities for green buildings”.
Chính quyền thành phố khuyến khích (thậm chí đòi hỏi bắt buộc) các nhà đầu tư phải xây dựng các tòa nhà đạt chứng chỉ CTX khi cấp phép xây dựng, yêu cầu cải tạo các tòa nhà đã xây dựng thành CTX. Như vậy, mỗi thành phố cần có một Ban lãnh đạo phong trào thành phố CTX với nhiệm vụ:
(1) Đề xuất các chủ trương, kế hoạch, sáng kiến khuyến khích xây dựng CTX và mục tiêu chiến lược xây dựng Thành phố CTX trong 10 – 15 năm tới, đệ trình lãnh đạo thành phố xem xét, phê duyệt;
(2) Lựa chọn và xây dựng một Hệ thống tiêu chí đánh giá CTX phù hợp với điều kiện Việt Nam. Trong các tiêu chí có thể bổ sung thêm (hoặc nhấn mạnh hơn) “Tiêu chí không gian xanh” (đã nêu ở mục Đô thị xanh).
(3) Tổ chức đánh giá và cấp chứng chỉ CTX.
Chúng tôi tin tưởng với cách làm này, sau 5 – 10 năm chúng ta sẽ có một số Thành phố CTX trên toàn đất nước Việt Nam.
PGS.TS Phạm Đức Nguyên
Ủy viên Hội đồng Kiến trúc Xanh Hội KTS Việt Nam
Nguồn: Báo Môi Trường và Đô Thị