Kinh tế địa phương sẽ cất cánh, nếu xây mới sân bay?
Theo dự báo của Hiệp hội Vận tải hàng không quốc tế (IATA), tới năm 2035, hàng không Việt Nam sẽ phục vụ tới 136 triệu hành khách, gấp đôi số lượng dự kiến cho cả năm 2022 là 70-80 triệu lượt hành khách.
Hiện cả nước có 22 cảng hàng không đang hoạt động, trong đó nhiều cảng hàng không trong nước đã phải khai thác vượt công suất công bố như tại các nhà ga hành khách nội địa sân bay Côn Đảo, Cát Bi, Phú Quốc, Liên Khương, Cam Ranh… Điều này đòi hỏi phải sớm nâng cấp các sân bay hiện hữu cũng như đầu tư thêm các sân bay bay mới.
Bên cạnh sân bay lớn như Long Thành đang được khẩn trương thi công thì cần có thêm các sân bay nhỏ, ngoài phục vụ nhu cầu di chuyển hành khách và hàng hóa, là bộ đệm dự phòng cho các sân bay lớn, còn có ý nghĩa giúp thúc đẩy kinh tế địa phương, phục vụ an ninh quốc phòng cũng như thực hiện các chức năng khác hỗ trợ sản xuất lâm nghiệp, nông nghiệp, phòng chống cháy rừng…
Tại tọa đàm “Sân bay nhỏ cho kinh tế địa phương cất cánh”, các chuyên gia kinh tế trong và ngoài nước đều nhấn mạnh sự cần thiết phải bổ sung vào Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng hàng không, sân bay toàn quốc thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 thêm các dự án mới tại các địa phương.
Theo ông Mick Werson, Chuyên gia Kinh tế trưởng NACO – một công ty thuộc Tập đoàn Royal Haskoning DHV, Việt Nam cần tính tới việc quy hoạch hệ thống sân bay theo 3 lớp. Lớp trên cùng là các sân bay trung tâm lớn với lưu lượng hàng năm hơn 20 triệu lượt hành khách, xử lý phần lớn nhu cầu giao thông. Tầng thấp nhất là các sân bay địa phương hoặc cấp ba với ít hơn 1 triệu hành khách hàng năm. Và lớp thứ ba là lớp ở giữa, còn được gọi là lớp cầu nối, giữ vai trò kết nối các sân bay trung tâm và sân bay địa phương.
Ảnh minh họa: BT |
Những sân bay này không chỉ có chức năng như một “trung chuyển” trực tiếp cho các sân bay lớn trong mạng lưới tối ưu hóa vận tải mà còn là sân bay dự phòng chiến lược trong trường hợp các sân bay lớn bị quá tải. Nói cách khác, các sân bay trung tâm lớn không thể duy trì mạng lưới giá trị và lưu lượng giao thông vượt trội của chúng nếu không có các sân bay nhỏ.
Cũng theo ông Mick Werson, bên cạnh chức năng kết nối, các sân bay nhỏ còn mang theo những ý nghĩa khác. Các sân bay nhỏ với hơn 1 triệu hành khách hàng năm khi được quản lý hợp lý có thể tạo ra giá trị kinh tế trực tiếp về lợi nhuận cho các nhà khai thác và nhà đầu tư. Ngoài ra, chúng tạo ra việc làm trực tiếp. Và cuối cùng, chúng tạo ra giá trị kinh tế gián tiếp: giúp thu hút đầu tư và thúc đẩy hoặc hỗ trợ các hoạt động kinh tế (chẳng hạn như du lịch). Theo cách như vậy, các sân bay nhỏ địa phương đã gián tiếp thúc đẩy tạo ra việc làm và nguồn thu từ thuế cho các chính phủ.
“Mặc dù tại mỗi sân bay có một đặc thù khác nhau và có nhiều yếu tố cần được xem xét, nhưng xét chung, mỗi sân bay quy mô 1 triệu hành khách hàng năm tạo ra 1.000 việc làm trực tiếp và gián tiếp”, ông Mick Werson cho biết.
Cũng tại Tọa đàm, các chuyên gia và lãnh đạo địa phương cũng đề cập tới những vấn đề liên quan như công tác quy hoạch cấp trung ương và địa phương, vấn đề khai thác hiệu quả đất đai dành cho hạ tầng hàng không, kết nối vùng, kinh nghiệm thu hút đầu tư vốn xã hội hóa trong và ngoài nước vào hạ tầng hàng không, bài học thành công của mô hình đầu tư PPP với sân bay Vân Đồn (Quảng Ninh) và thực tiễn đầu tư sân bay Sapa (Lào Cai),…
Ông Hong Sun – Phó Chủ tịch Hội doanh nghiệp Hàn Quốc tại Việt Nam cho rằng, sân bay rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế – xã hội ở các địa phương. Việc phát triển sân bay nên được xem xét cẩn thận các yếu tố sau như nhu cầu thị trường, khoảng cách giữa các địa phương, dân số, khả năng tài chính, chi phí vận hành và nhiều yếu tố khác nữa.
Việt Nam có kế hoạch tăng số lựợng sân bay lên con số 28 vào năm 2030 và 31 vào năm 2050. Để đạt mục tiêu này, thu hút đầu tư tư nhân bằng phương thức đối tác công tư PPP là một giải pháp hiệu quả cho Việt Nam nhằm giảm áp lực ngân sách nhà nước, gia tăng hiệu quả và tính khả.
Lựa chọn mô hình phát triển sân bay nội địa hay quốc tế cũng là một yếu tố quan trọng khi chúng ta xem xét phát triển trong dài hạn. Bài học từ các nước khác cũng đã chứng minh tầm quan trọng của điều này. Ở Hàn Quốc, nhiều địa phương có sân bay và điều này hỗ trợ rất nhiều cho sự phát triển của địa phương.
Phát triển sân bay nhỏ sẽ thật sự cần thiết và hữu ích nếu các sân bay nhỏ có thể hỗ trợ các sân bay lớn hơn. Và sự vận hành các sân bay này phải hài hoà với quy hoạch phát triển giao thông quốc gia cũng như đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội.
Ở nhiều nước, sân bay được phát triển như những thành phố nhỏ, đáp ứng các nhu cầu của hành khách, từ đó giúp tăng cường sức mua, thúc đẩy phát triển du lịch. Sân bay Incheon ở Hàn Quốc là một ví dụ. Sân bay này có những khu bán hàng của những thương hiệu nổi tiếng, khu sạn, giải trí và cả khu thể thao, bệnh viện và trung tâm thương mại. Ngoài ra phát triển sân bay cũng cần lưu ý phát triển hạ tầng kết nối như đường bộ, giúp kết nối sân bay với hạ tầng khác.
Còn theo ông Nguyễn Duy Đồng – Phó Chủ tịch Hiệp Hội Khoa học và Công nghệ Hàng không Việt Nam, hệ thống sân bay tại các quốc gia khác được chia ra nhiều loại như cảng hàng không, sân bay thường, sân bay dịch vụ, sân bay lưỡng dụng,… Các địa phương cần nghiên cứu kỹ tính khả thi của các dự án sân bay sẽ triển khai như vị trí đặt sân bay để máy bay cất cánh và hạ cánh thuận tiện. Tiếp theo các địa phương cần lập dự án xây dựng sân bay theo đúng quy định của phát luật cũng như đảm bảo vấn đề kỹ thuật. Mỗi dự án cần đưa ra nhiều phương án khả thi.
Bên cạnh đó, cần phải xem xét nhu cầu thị trường. Đây là yếu tố quan trọng nhất vì sân bay mới chỉ có thể vận hành hiệu qua khi thu hút được khách hàng và bán được vé. Đối với quy hoạch mạng lưới sân bay, các tỉnh đưa ra đề xuất xây dựng sân bay mới, những đề xuất này cần được đưa vào quy hoạch một cách toàn diện cả sân bay và sân bay nhỏ.
“Trong quy hoạch trước đây, chúng tôi đã đưa ra các tiêu chí phân cấp cảng hàng không. Cảng hàng không tối thiểu mỗi năm phải đón 25 nghìn hành khách. Với lượng khách dưới 25 nghìn sẽ được xem là sân bay nhỏ và sân bay dịch vụ. Các tỉnh cũng cần xác định mục đích, ý nghĩa của sân bay dự kiến triển khai để đảm bảo tính khả thi của dự án”, ông Nguyễn Duy Đồng nêu giải pháp.
Bảo Thoa
Nguồn: Báo lao động thủ đô