Hiệu quả từ mô hình sản xuất nước tẩy rửa sinh học từ rác hữu cơ tại Phú Yên

Hiệu quả từ mô hình sản xuất nước tẩy rửa sinh học từ rác hữu cơ tại Phú Yên

Lâm Hà –  Thứ năm, 08/09/2022 15:37 (GMT+7)

Tại Phú Yên hiện đang phát triển mô hình sản xuất nước tẩy rửa sinh học (NTRSH) bằng phương pháp ngâm ủ rác thải thực vật vừa đen lại hiệu quả kinh tế vừa góp phần bảo vệ môi trường.

Trên Tạp chí Môi trường, ThS. Huỳnh Huy Việt, Chi cục Bảo vệ môi trường Phú Yên và TS. Võ Anh Khuê, Trường Cao đẳng Công Thương miền Trung đã có những chia sẻ về mô hình này.

Theo các nhóm nghiên cứu, mô hình này được bắt nguồn từ phương pháp ngâm ủ rác thải thực vật (vỏ trái cây như cam, bưởi, chanh, dứa; hoa,…) thành nước tẩy rửa sinh học do tiến sĩ người Thái tên là Rosukon nghiên cứu, được tỉnh Phú Yên đẩy mạnh áp dụng từ năm 2019 – 2020. Tuy nhiên sản phẩm thu được còn có mùi, nhiều cặn, hiệu quả tẩy rửa thấp và thời gian sử dụng hạn chế nên chưa thu hút được sự quan tâm của cộng đồng.

Hiện nay, NTRSH thô hay còn có tên là dung dịch GE (Garbage Enzyme) đang được cộng đồng biết đến bởi tính năng tẩy rửa, an toàn và thân thiện môi trường. Dung dịch GE có màu vàng và có thể dùng ngay. Để sản phẩm có tính thương mại, nhiều doanh nghiệp có bí quyết riêng để sản xuất nước tẩy rửa từ dung dịch thô này, tuy nhiên giá thành sản phẩm còn cao và cộng đồng khó tiếp cận.

Tính tẩy rửa của dung dịch GE được quyết định bởi thành phần chính là các axit hữu cơ, đây là chất có tác dụng khử mùi tanh và dễ dàng hoà tan vết dầu mỡ nên có tính tẩy rửa cao. Trong dung dịch GE có chứa các enzyme giúp phân hủy các chất hữu cơ có trong đất, nước nhanh hơn nên an toàn và có lợi cho môi trường khi sử dụng dung dịch này. Do vậy, dung dịch GE được xem là một trong những giải pháp tiềm năng của mô hình phân loại, giảm thiểu rác thải dựa vào cộng đồng của tỉnh Phú Yên.

Hiệu quả từ mô hình sản xuất nước tẩy rửa sinh học từ rác hữu cơ tại Phú Yên-1
Hội viên Hội Phụ nữ xã Bình Ngọc, thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên chuẩn bị nguyên liệu sản xuất NTRSH

Cải tiến quy trình sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm

Từ thực tế trên, Trường cao đẳng Công thương miền Trung đã được đặt hàng thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu cải tiến quy trình sản xuất nâng cao chất lượng sản phẩm NTRSH từ dung dịch GE thô. Trên cơ sở phân tích, tổng hợp các phương pháp ủ dung dịch thô và sản phẩm NTRSH trên thị trường đang có, nhóm tác giả nghiên cứu đã đề xuất quy trình sản xuất NTRSH chất lượng với giá thành ở mức phù hợp nhằm tạo điều kiện cho mọi người đều có khả năng sản xuất và sử dụng sản phẩm.

Thứ nhất, về quy cải tiến ủ NTRSH thô: Nguyên liệu đầu là các loại thực vật tươi có hương thơm, có thành phần đường nhưng không được chứa nhiều chất tanin. Lọc dung dịch GE có thể bằng phương pháp thủ công qua vải thô hoặc bằng máy lọc qua cột lọc bông, tốt nhất nên lọc qua cột lọc bông và khuấy trộn để giảm mùi. Dung dịch sau quá trình lọc có màu vàng, mùi thơm và trong suốt; phần bùn cặn được tái sử dụng làm mồi ủ cho mẻ tiếp theo.

Thứ hai, về quy trình sản xuất chất bảo quản: Nước lọc thô cần được bổ sung chất bảo quản nhằm cải thiện về mùi, thời gian sử dụng và độ bọt để tăng tính tẩy rửa. Quy trình sản xuất chất bảo quản cần phải đơn giản nhưng vẫn đảm bảo hiệu quả và giá thành rẻ. Thành phần chất bảo quản gồm: Las, Sles, NaOH, chất tạo đặc (HEC), NaCl và nước sạch. Để sản xuất chất bảo quản yêu cầu tối thiểu phải có thiết bị khuấy. Sản phẩm chất bảo quản thu được với đặc điểm là có tính kiềm, có độ nhớt cao, dạng chất lỏng sệt. Công dụng các thành phần của chất bảo quản như sau: Las (Sodium lauryl benzene sulfonate) là chất hoạt động bề mặt anion, chúng được ứng dụng phổ biến nhất trong các chất tẩy rửa như bột giặt, xà phòng, nước rửa chén; Sles (Sodium Lauryl Ether Sulfate, hay natri lauryl ete sunfat) là một chất hoạt động bề mặt có trong nhiều sản phẩm chăm sóc cá nhân (xà phòng, dầu gội đầu, kem đánh răng,…); NaOH trong chất bảo quản nhằm khi hòa trộn vào nước lọc thô sẽ trung hòa một phần axit; NaCl nhằm tăng độ đặc của dung dịch chất bảo quản; Hec là chất bột màu trắng có công dụng là chất làm đặc.

Thứ ba, về quy trình phối trộn nhằm sản xuất NTRSH nâng cao: Tùy theo mục đích sử dụng, tỷ lệ phối trộn chất bảo quản với dung dịch GE có sự khác nhau, nếu nước lau sàn nhà thì pha chế tỉ lệ 9/1, nếu là nước rửa chén thì pha chế theo tỉ lệ 8/2 hoặc 7/3.

Khi áp dụng quy trình sản xuất mới, nhóm nghiên cứu đã thu được sản phẩm nước tẩy rửa mới có chất lượng cao hơn rất nhiều. Qua khảo sát 100 người sử dụng thử, 100% người được hỏi đều đánh giá sản phẩm sử dụng tốt và có nguyện vọng được hướng dẫn công nghệ để tự sản xuất sử dụng gia đình hoặc thương mại.

Cộng đồng cùng phát triển

Từ kết quả nghiên cứu nói trên, Sở Tài nguyên và Môi trường Phú Yên đã phối hợp với Hội đoàn thể và cơ quan liên quan chuyển giao và hỗ trợ các tổ chức, cá nhân phát triển mô hình sản xuất NTRSH, trong đó có nhiều tổ chức phát triển thành sản phẩm thương mại.

Hiệu quả từ mô hình sản xuất nước tẩy rửa sinh học từ rác hữu cơ tại Phú Yên-2
Mô hình sản xuất nước rửa bát sinh học của Hội Phụ nữ xã Bình Ngọc, thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên

Mô hình Câu lạc bộ (CLB) tự quản về môi trường tái chế rác thành NTRSH: Cuối năm 2020, được Sở TN&MT Phú Yên phối hợp với Trường Cao đẳng Công Thương miền Trung tập huấn, hỗ trợ kỹ thuật, chuyển giao công nghệ làm NTRSH, CLB “Tái chế chất thải hữu cơ thực vật thành NTRSH xã Bình Ngọc” do Hội Phụ nữ xã Bình Ngọc, TP. Tuy Hòa quản lý đã tạo ra sản phẩm (nước lau sàn và nước rửa chén) có chất lượng với giá cạnh tranh (35.000 đồng/lít) chủ yếu từ vỏ cam được thu gom từ các điểm bán nước ép trái cây trên địa bàn thành phố. Sản lượng bán ra bình quân 1.500 lít/tháng với thị trường tiêu thụ sản phẩm chủ yếu là trong tỉnh. Các thành viên của CLB có thu nhập tạo từ 2-4 triệu đồng/tháng, do vậy đã tạo tính bền vững cho mô hình, góp phần duy trì các hoạt động tuyên truyền theo quy chế hoạt động của CLB. Hiện nay, để thuận lợi cho hoạt động thương mại của sản phẩm các thành viên CLB đã hợp tác hình thành hộ kinh doanh, đồng thời UBND thành phố Tuy Hòa đang hỗ trợ các thủ tục để được xem xét chứng nhận sản phẩm OCOP.

tm-img-alt
Sản xuất nước rửa chén sinh học ở chùa Bảo Lâm

Mô hình cơ sở thờ tự sản xuất NTRSH phục vụ nhu cầu cộng đồng: Cuối năm 2021, chùa Bảo Lâm ở TP. Tuy Hòa và chùa phật giáo Hòa Hảo Sơn Tự ở thị xã Sông Cầu là 2 cơ sở thờ tự đầu tiên vận động tín đồ thu gom vỏ trái cây các loại (bưởi, cam, dứa) để quyên góp cho chùa sản xuất nước rửa chén, nước lau sàn sinh học nhằm phục vụ cho cở sở và nhu cầu của tín đồ. Đặc biệt, sản phẩm của chùa Bảo Lâm đã được đông đảo cộng đồng hưởng ứng sử dụng với giá thành 25.000 đồng/lít nhằm đảm bảo được bù đắp chi phí sản xuất để Tổ tự quản của chùa duy trì hoạt động. Hiện nay chùa Bảo Lâm cung cấp cho thị trường bình quân 400 lít/tháng.

tm-img-alt
Nước rửa chén và nước lau sàn sinh học từ quả khón của HTX Đồng Din

Mô hình cơ sở sản xuất với quy trình khép kín và tuần hoàn rác thải từ quả khóm (dứa): Hợp tác xã (HTX) Nông nghiệp kinh doanh tổng hợp Đồng Din ở huyện Phú Hòa chuyên về chế biến sản phẩm từ quả khóm của địa phương, đặc biệt nhờ áp dụng phương pháp ủ NTRSH cải tiến, HTX đã tận dụng vỏ khóm thải bỏ để sản xuất nước rửa chén và nước lau sàn sinh học, với giá bán ra là 45.000 đồng/lít. Bã sau ủ lên men được tận dụng cùng với cùi để ủ làm phân bón cây. Cách làm này đã tạo ra tính tuần hoàn rác thải từ đó tạo thêm sản phẩm hữu ích góp phần tăng giá trị kinh tế cho quả khóm (dứa). Đầu năm 2022, 2 sản phẩm trên đã được tỉnh Phú Yên chứng nhận đạt sản phẩm đạt OCOP 3 sao, góp phần tăng uy tín cho sản phẩm. Hiện nay, nhiều đơn vị ngoài tỉnh đã hợp tác để trở thành nhà phân phối để đưa sản phẩm có mặt trên toàn quốc.

Theo các nhà nghiên cứu, để góp phần mô hình sản xuất NTRSH được phát triển rộng rãi trong cộng đồng, thời gian tới, Sở TN&MT Phú Yên cần tiếp tục phối hợp với Hội đoàn thể đẩy mạnh hỗ trợ các tổ chức, cá nhân sản xuất NTRSH, hoạt động dựa trên nguyên cộng đồng ủng hộ sản phẩm với giá đảm bảo được bù đắp chi phí sản xuất.

Từ thực tế mô hình sản xuất NTRSH từ chất thải hữu cơ tại Phú Yên có thể thấy để tận dụng được nguồn rác thải và tái chế trở thành sản phẩm hữu ích phục vụ cuộc sống không phải chỉ cần phải có sự chung tay của cả 3 “Nhà” – Nhà quản lý, Nhà khoa học, Nhà sản xuất mà còn cần có sự tham gia hưởng ứng của cả cộng đồng.

Nguồn: Báo Môi Trường và Đô Thị

Bạn cũng có thể thích