Nhận diện thách thức và định hướng bảo vệ môi trường
Nhận diện thách thức và định hướng bảo vệ môi trường
Những nguy cơ và thách thức mà công tác bảo vệ môi trường ở nước ta hiện nay đang phải đối mặt, đòi hỏi cần phải có sự quyết tâm, nỗ lực cao hơn nữa của cả hệ thống chính trị, sự tham gia và vào cuộc có trách nhiệm của người dân.
KHÓ KHĂN THÁCH THỨC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG NGÀY CÀNG LỚN
Lựa chọn mô hình phát triển bền vững kinh tế – xã hội của đất nước là quyết tâm chính trị cao, quan điểm chỉ đạo quan trọng và nhất quán của Đảng, Nhà nước ta. Trên cơ sở định hướng đó, trước những vấn đề môi trường phát sinh trong thực tiễn, Quốc hội, Chính phủ đã ban hành nhiều quyết sách quan trọng, thiết lập hành lang pháp lý cho công tác bảo vệ môi trường, kiến tạo cho phát triển, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân. Trong đó, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 có nhiều chủ trương, chính sách thể chế hóa chủ trương phát triển hài hòa dựa trên 3 trụ cột kinh tế, xã hội, môi trường. Thông qua triển khai nhiều công cụ, biện pháp quản lý đồng bộ, công tác bảo vệ môi trường trong giai đoạn vừa qua tiếp tục đạt được nhiều kết quả tích cực. Xu hướng giảm nhanh chất lượng môi trường đã được ngăn chặn. Các chỉ số về bảo vệ môi trường đã đóng góp quan trọng đưa chỉ số phát triển bền vững của Việt Nam ở vị trí 51/165 quốc gia và vùng lãnh thổ tăng 37 bậc so với năm 2016. Thông qua kết quả điều tra xã hội học đối với Chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công tỉnh ở Việt Nam cho thấy mức độ hài lòng của người dân đối với công tác bảo vệ môi trường đã được cải thiện rõ rệt.
Trong bối cảnh hiện nay, những khó khăn, thách thức ngày càng lớn, đặt ra áp lực không nhỏ về yêu cầu hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường, giữ gìn thiên nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học. Biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh và các vấn đề an ninh phi truyền thống ngày càng tác động mạnh, nhiều mặt, đe dọa nghiêm trọng đến sự phát triển ổn định, bền vững của thế giới, khu vực và đất nước.
Mới đây, tại Hội nghị Môi trường toàn quốc lần thứ V, Báo cáo Tổng kết công tác bảo vệ môi trường giai đoạn 2016-2022 và định hướng giai đoạn 2022-2025 đã đưa ra nhiều đánh giá, nhận diện những nguy cơ và thách thức mà công tác bảo vệ môi trường ở nước ta hiện nay đang phải đối mặt, đòi hỏi cần phải có sự quyết tâm, nỗ lực cao hơn nữa của cả hệ thống chính trị, sự tham gia và vào cuộc có trách nhiệm của người dân.
Một là, tốc độ ô nhiễm, suy thoái môi trường, suy giảm tài nguyên thiên nhiên, đa dạng sinh học mặc dù đã được kiểm soát song vẫn diễn biến phức tạp, một số nơi, khu vực vẫn ở mức đáng báo động; đặc biệt nổi lên là ô nhiễm tại một số lưu vực sông, làng nghề, ô nhiễm không khí tại một số thành phố lớn. Nguy cơ này nếu không có giải pháp để kiểm soát, xử lý kịp thời sẽ tác động lớn đến mục tiêu phát triển bền vững.
Ô nhiễm không khí vẫn còn diễn biến phức tạp, nhất là ô nhiễm bụi mịn tại các thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh tại một số thời điểm trong ngày và một số ngày trong năm, nhất là khi có sự kết hợp giữa các yếu tố khí tượng, khí hậu, hiện tượng thời tiết sương mù với sự gia tăng các nguồn phát thải ô nhiễm không khí. Chỉ số chất lượng không khí (AQI) có thời điểm vượt ngưỡng an toàn, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe người dân. Tình trạng bụi, khí thải từ các phương tiện giao thông, hoạt động xây dựng, hoạt động công nghiệp với lượng phát thải lớn; diện tích cây xanh, mặt nước trong phát triển đô thị chưa đạt yêu cầu.
Sản xuất theo mô hình làng nghề đang gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của một bộ phận lớn người dân trong các khu vực này và vùng lân cận. Bên cạnh đó là các nguy cơ ô nhiễm xuyên biên giới, ô nhiễm theo dòng chảy cũng rất đáng lo ngại.
Hai là, yêu cầu đầu tư hạ tầng xử lý chất thải rắn sinh hoạt, nước thải sinh hoạt đặt ra cấp bách trong khi nguồn vốn còn hạn chế, các chính sách xã hội chưa hiệu quả. Tỷ lệ nước thải sinh hoạt được thu gom, xử lý tại các đô thị rất thấp, chỉ đạt khoảng 15%; hầu hết các khu vực dân cư nông thôn chưa có hệ thống thu gom và xử lý nước thải sinh hoạt tập trung. Nhiều bãi chôn lấp chất thải rắn không đúng quy định, yêu cầu kỹ thuật về bảo vệ môi trường vẫn còn tồn tại. Còn nhiều các lò đốt cỡ nhỏ không có hệ thống xử lý khí thải hoặc có nhưng không đạt yêu cầu về môi trường. Một số địa phương hiện nay chưa có cơ sở xử lý chất thải nguy hại. Tỷ lệ thu gom, xử lý CRT sinh hoạt tại khu vực nông thôn mới đạt 66%; hơn 80% các bãi chôn lấp không hợp vệ sinh. Việc phân loại CRT sinh hoạt tại nguồn chưa được thực hiện trong giai đoạn vừa qua và hiện nay mới đang bắt đầu chuẩn bị các điều kiện cần thiết để thực hiện theo tinh thần của Luật Bảo vệ môi trường 2020.
Ba là, đa dạng sinh học vẫn có xu hướng bị suy giảm, cân bằng sinh thái có nguy cơ bị ảnh hưởng. Các hệ sinh thái tự nhiên bị thu hẹp diện tích, chia cắt, suy giảm chất lượng. Rừng nguyên sinh chỉ còn rất ít, bị chia cắt và cô lập thành những khu nhỏ, phân bố rải rác ở một số khu vực như Tây Nguyên, Tây Bắc nên khó có cơ hội phục hồi hoàn toàn.
Nguyên nhân của những thách thức trên được xác định gồm những nguyên nhân khách quan và chủ quan.
Về nguyên nhân khách quan, tác động của biến đổi khí hậu, các vấn đề môi trường xuyên biên giới, theo dòng hội nhập kinh tế ngày càng lớn, phức tạp, khó lường. Biến đổi khí hậu diễn biến nhanh, phức tạp hơn so với dự báo, tác động nhiều mặt lên môi trường nước ta. Các vấn đề môi trường theo lưu vực sông Mê Công, sông Hồng và các sông xuyên biên giới ngày càng phức tạp. Ô nhiễm trên biển diễn biến phức tạp và chưa có biện pháp ứng phó hiệu quả.
Hoạt động công nghiệp hóa, đô thị hóa tạo ra áp lực nhiều nguồn ô nhiễm gia tăng nhanh về số lượng, quy mô và mức độ tác động tác động xấu lên môi trường, làm cho môi trường đất, nước, không khí nhiều nơi bị ô nhiễm.
Việc thành lập mới các khu bảo tồn thiên nhiên và mở rộng diện tích bảo tồn thiên nhiên còn chậm. Tình trạng cháy rừng, chặt phá rừng tự nhiên vẫn còn diễn ra, việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất, mặt nước không đúng quy định dẫn đến suy giảm tính đa dạng của hệ sinh thái tự nhiên. Các nguy cơ từ sinh vật ngoại lai xâm hại và rủi ro từ sinh vật biến đổi gen vẫn còn hiện hữu.
Về nguyên nhân chủ quan, đáng chú ý là, nhận thức của một số cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể và người dân về bảo vệ môi trường chưa đầy đủ, đúng mức về tầm quan trọng của công tác bảo vệ môi trường cũng như vai trò và giá trị của đa dạng sinh học và dịch vụ hệ sinh thái, tăng trưởng xanh, phát triển nền kinh tế xanh như là một phương thức để phát triển bền vững trong xã hội; còn tồn tại khoảng cách lớn giữa nhận thức và hành động, giữa cam kết và thực hiện. Vẫn còn tư tưởng ưu tiên cho tăng trưởng kinh tế, tập trung thu hút đầu tư, xem nhẹ yêu cầu bảo vệ môi trường, quan điểm không đánh đổi môi trường lấy phát triển kinh tế chưa được thực hiện triệt để.
Các thói quen xấu gây ô nhiễm môi trường, làm mất vệ sinh, ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng như: Vứt rác, chất thải, xác súc vật bừa bãi ở nơi công cộng, nguồn nước… chưa được khắc phục triệt để, thậm chí một số nơi còn phổ biến. Cơ chế giám sát của cộng đồng trong phát hiện trong hoạt động xả thái trái pháp luật còn chưa thực sự hiệu quả. Tình trạng săn bắt, buôn bán, tiêu thụ động vật hoang dã tại Việt Nam vẫn còn tiếp diễn.
Ý thức chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường và giữ gìn vệ sinh môi trường của các hộ sản xuất kinh doanh, nhất là các hộ sản xuất kinh doanh một số làng nghề còn kém. Ý thức trách nhiệm về bảo vệ môi trường của nhiều nhà máy, cơ sở sản xuất, kinh doanh còn chưa cao, chưa chủ động, tự giác thực hiện trách nhiệm và nghĩa vụ bảo vệ môi trường, vẫn còn tư tưởng chạy theo lợi nhuận, coi nhẹ bảo vệ môi trường; sẵn sàng hy sinh môi trường để đánh đổi các lợi ích kinh tế trước mắt. Công tác tổ chức thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường còn hạn chế.
Bên cạnh đó, nguồn nhân lực về bảo vệ môi trường còn chưa tương xứng, thiếu về số lượng, yếu về chất lượng, chưa đáp ứng được các yêu cầu đặt ra, nhất là ở địa phương, cơ sở.
Công tác điều tra cơ bản về tài nguyên sinh vật và về đa dạng sinh học tuy còn có một số thành tựu, nhưng chưa mang tính hệ thống. Thông tin về đa dạng sinh học còn rải rác, chưa có các tiêu chuẩn chung, có ít dữ liệu đối chiếu hoặc các cơ chế chia sẻ. Hệ thống quan trắc đa dạng sinh học vẫn chưa được hình thành đầy đủ, đồng bộ các yếu tố môi trường đất, nước, không khí, các hệ sinh thái và các thành phần đa dạng sinh học khác.
Thiếu nguồn lực đầu tư là thách thức lớn trong bối cảnh các vấn đề môi trường ngày càng gia tăng, tích tụ, ảnh hưởng đến đời sống của người dân. Việc huy động các nguồn lực trong xã hội còn nhiều khó khăn; nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả chi phí xử lý, khắc phục, cải tạo môi trường” chưa được áp dụng triệt để, mức chi chưa đúng, chưa đủ. Tỷ lệ đầu tư trở lại cho bảo vệ môi trường từ các nguồn thu liên quan đến môi trường còn thấp.
Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng thân thiện với môi trường, phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, khai thác được các tiềm năng du lịch, nông nghiệp để ứng phó với biến đổi khí hậu diễn ra chưa đồng bộ ở các địa phương, chưa tận dụng được lợi thế liên kết vùng, đóng góp của các ngành kinh tế có sử dụng năng lượng sạch chưa cao, dù tỉ trọng các ngành đã có sự thay đổi đáng kể so với trước đây.
HƯỚNG TRỌNG TÂM THỰC HIỆN CÁC MỤC TIÊU BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
Để tiếp tục thực hiện có hiệu quả các mục tiêu bảo vệ môi trường hướng tới mục tiêu phát triển bền vững và chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, trong giai đoạn 2022-2025, ngành Môi trường xác định một số hoạt động chính. Tại Hội nghị Môi trường toàn quốc, Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường, TS. Võ Tuấn Nhân cho biết 6 nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm ngành cần tiếp tục tập trung thực hiện trong giai đoạn 2022-2025 như sau:
Thứ nhất, tổ chức triển khai có hiệu quả Luật Bảo vệ Môi trường 2020. Hoàn thiện hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn quốc gia về môi trường hướng tới mục tiêu tiệm cận với các quy chuẩn, tiêu chuẩn quốc tế.
Thứ hai, tăng cường, nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động đánh giá môi trường chiến lược với các chiến lược, quy hoạch, đánh giá tác động đối với các dự án đầu tư phát triển, trọng tâm là triển khai đồng bộ, hiệu quả các chế định mới của Luật nhằm sàng lọc dự án đầu tư và chủ động phòng ngừa, kiểm soát, giảm thiểu nguy cơ xảy ra ô nhiễm, đặc biệt các dự án có yếu tố nhạy cảm liên quan đến bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học, chuyển đổi đất rừng; thiết lập cơ chế công khai nội dung báo cáo Đánh giá tác động môi trường (ĐTM) để tham vấn rộng rãi ý kiến của các cá nhân, tổ chức trong quá trình thẩm định báo cáo ĐTM; xây dựng hướng dẫn kỹ thuật về áp dụng, công nhận kỹ thuật hiện có tốt nhất đối với một số loại hình sản xuất có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường.
Thứ ba, tăng cường giám sát, kiểm soát các nguồn thải từ các hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ thông qua duy trì, tăng cường hiệu quả mô hình tổ giám sát 4 bên; kiểm soát, giám sát chặc chẽ khu vực tập trung nhiều nguồn thải tại các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, làng nghề, lưu vực sông…; triển khai kế hoạch giám sát, xử lý khu vực, điểm nóng về môi trường. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường, đấu tranh phòng, chống tội phạm về môi trường.
Thứ tư, quản lý chất thải rắn, trọng tâm là quản lý tốt chất thải rắn sinh hoạt, chất thải nhựa. Trong đó, triển khai ngay việc phân loại rác tại nguồn và thu phí theo lượng chất thải rắn phát sinh, đảm bảo tỷ lệ rác thải sinh hoạt được thu gom và xử lý tại khu vực đô thị đến năm 2025 duy trì ở mức 90%. Mở rộng mạng lưới dịch vụ thu gom chất thải rắn ở khu vực nông thôn. Thiết lập mạng lưới các cơ sở xử lý chất thải rắn tập trung theo hướng liên vùng, liên tỉnh. Áp dụng công nghệ hiện đại, thân thiện với môi trường, xử lý kết hợp với thu hồi năng lượng. Thực hiện hiệu quả các quy định về trách nhiệm của nhà sản xuất, nhập khẩu trong thu hồi, tái chế thủ công, quy mô nhỏ, gây ô nhiễm môi trường; giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế, thu gom và xử lý chất thải nhựa.
Thứ năm, quản lý chất lượng môi trường, cải tạo, phục hồi môi trường, tập trung vào kiểm soát ô nhiễm, cải thiện chất lượng môi trường không khí ở các đô thị thông qua việc lập và thực hiện kế hoạch quản lý chất lượng môi trường không khí cấp quốc gia và cấp tỉnh; đầu tư phát triển hệ thống trạm quan trắc không khí tự động; đầu tư, ứng dụng công nghệ để hoàn thiện nâng cao năng lực dựa báo, cảnh báo môi trường. Kiểm soát khí thải đối với xe cơ giới; xây dựng và thực hiện lộ trình chuyển đổi, loại bỏ phương tiện giao thông sử dụng nhiên liệu hóa thạch, phương tiện giao thông gây ô nhiễm môi trường.
Đồng thời xử lý nước thải, kiểm soát, quản lý, bảo vệ môi trường nước và các lưu vực sông thông qua xây dựng và thực hiện kế hoạch quản lý chất lượng môi trường nước mặt đối với các sông, hồ; đánh giá chất lượng môi trường nước mặt, trầm tích, khả năng chịu tải, công bố khả năng chịu tải của môi trường nước mặt đối với một số sông không còn khả năng chịu tải để làm căn cứ cho việc phê duyệt báo cáo ĐTM, cấp giấy phép môi trường. Đầu tư hệ thống thu gom, xử lý nước thải sinh hoạt kết hợp với cải tạo, phục hồi các hồ ao, kênh mương ở các đô thị lớn.
Bảo vệ môi trường đất, phục hồi các khu vực bị ô nhiễm hóa chất tồn lưu; xây dựng và thực hiện kế hoạch xử lý, cải tạo và phục hồi các khu vực bị ô nhiễm môi trường đất đặc biệt nghiêm trọng trên phạm vi cả nước.
Thứ sáu, đẩy mạnh công tác bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học. Đầu tư bảo vệ và phát triển các nguồn vốn tự nhiên. Tiếp tục đẩy mạnh, thiết lập và quản lý bền vững khu bảo tồn thiên nhiên, các hành lang đa dạng sinh học, khu vực đa dạng sinh học cao, vùng đất ngập nước, cảnh quan thiên nhiên quan trọng.
Triển khai các mô hình bảo tồn, sử dụng bền vững các hệ sinh thái. Tiếp tục triển khai Đề án trồng 1 tỷ cây xanh cho Việt Nam. Xây dựng và thực hiện các chương trình bảo tồn loài động vật hoang dã nguy cấp, quý hiếm, cây trồng vật nuôi được ưu tiên bảo vệ.
Nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm của các cấp, các ngành và toàn dân về bảo vệ môi trường, từ đó dẫn đến sự thay đổi nhận thức và hành vi của từng cá nhân, cộng đồng. Công tác tuyên truyền, hướng dẫn triển khai Luật Bảo vệ Tài nguyên môi trường năm 2020 và các văn bản quy định chi tiết hướng dẫn thi hành Luật cần tập trung vào các quy định mới. Thực hiện các chương trình truyền thông, đa dạng hóa hình thức tuyên truyền về bảo vệ môi trường.
Những giải pháp đồng bộ, thực thi hiệu quả ngay lúc này nhằm giải quyết hiệu quả các nguy cơ, thách thức phải đối mặt, tiến tới mục tiêu Đại hội XIII của Đảng đề ra: “Đến năm 2030, cơ bản đạt các mục tiêu phát triển bền vững về tài nguyên, môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu”.
Nguồn: Báo Môi Trường và Đô Thị