Quy định mới về quản lý CTRSH trong Luật BVMT năm 2020 và các văn bản hướng dẫn
Quy định mới về quản lý CTRSH trong Luật BVMT năm 2020 và các văn bản hướng dẫn
Trong thời gian tới, nhằm đáp ứng các quy định của Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 và các văn bản hướng dẫn chi tiết thi hành, các cơ quan quản lý các cấp cần sớm triển khai đồng bộ nhiều giải pháp.
1. Thực trạng chung về công tác quản lý chất thải rắn sinh hoạt tại Việt Nam và khu vực miền Trung và Tây Nguyên
Trong những năm qua, khối lượng chất thải rắn sinh hoạt (CTRSH) phát sinh ngày càng tăng, tính chất và thành phần phức tạp, trong đó thành phần chất thải nhựa cao. Trong giai đoạn 2016 – 2021, lượng CTRSH phát sinh tiếp tục gia tăng trên phạm vi cả nước. Ước tính lượng CTRSH phát sinh ở các đô thị trên toàn quốc tăng trung bình 10% – 16% mỗi năm. Năm 2021, tổng khối lượng CTRSH phát sinh trên địa bàn 45/63 tỉnh/thành phố là khoảng 51.586 tấn/ngày; trong đó khu vực đô thị phát sinh khoảng 30.807 tấn/ngày và khu vực nông thôn khoảng 20.778 tấn/ngày; tỷ lệ chất thải nhựa khoảng 10 – 12%. Tỷ lệ chất thải rắn được thu gom tại khu vực đô thị tăng dần theo các năm; trong đó, năm 2020 tỷ lệ đạt khoảng 94,71% và năm 2021 đạt khoảng 96,37%.
Đối với khu vực miền Trung và Tây Nguyên, theo thống kê năm 2021, tổng lượng chất thải rắn sinh hoạt trên địa bàn các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên phát sinh khoảng 8.500 tấn/ngày. Đối với Đà Nẵng, năm 2021, tổng lượng chất thải rắn sinh hoạt trên địa bàn thành phố Đà Nẵng phát sinh khoảng 1.027 tấn/ngày. Trong đó khu vực đô thị khoảng 964 tấn/ngày, tỷ lệ thu gom đạt 100 %; khu vực nông thôn khoảng 63,5 tấn/ngày, tỷ lệ thu gom khoảng 100 %.
Tuy nhiên, rác thải sinh hoạt, đặc biệt là rác thải sinh hoạt tại nông thôn hầu hết chưa được phân loại tại nguồn; mới chỉ được thực hiện tại một số địa phương và vẫn mang tính khuyến khích. Một số địa phương thực hiện thí điểm phân loại tại nguồn tại một số khu vực với quy mô lớn như Thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Cần Thơ (riêng khu vực miền Trung và Tây Nguyên mới chỉ có 4/14 tỉnh, thành phố gồm Đà Nẵng, Thừa Thiên Huế, Bình Định và Quảng Nam đã từng thí điểm phân loại rác tại nguồn). Rác thải sinh hoạt chưa được thu gom, xử lý hiệu quả; vẫn còn 17% rác thải nông thôn chưa được thu gom và thải bỏ ra môi trường xung quanh. Chôn lấp vẫn là phương pháp được áp dụng phổ biến; 70% tổng lượng chất thải được xử lý bằng phương pháp chôn lấp nhưng chỉ có khoảng 20% là bãi chôn lấp hợp vệ sinh, còn lại là các bãi chôn lấp không hợp vệ sinh hoặc các bãi tập kết chất thải cấp xã; 16% tổng lượng chất thải được xử lý tại các nhà máy chế biến phân compost và khoảng 13% tổng lượng chất thải được xử lý bằng phương pháp đốt. Rác thải điện tử, chất thải nhựa sử dụng một lần, túi nilon chưa được thu gom, xử lý đúng cách; Ước tính có gần 3,0 triệu tấn rác thải nhựa phát sinh trong năm 2020, một lượng lớn trôi nổi trên sông, hồ, vùng đất ngập nước cửa sông, ven biển.
Còn tại địa bàn các tỉnh khu vực miền Trung và Tây Nguyên, theo kết quả đánh giá những năm gần đây cho thấy, toàn khu vực có khoảng 173 cơ sở xử lý/bãi chôn lấp CTRSH. Trong đó, tỷ lệ các công nghệ được áp dụng tại các cơ sở xử lý là: chôn lấp hợp vệ sinh (30%), đốt (10%), sản xuất phân vi sinh (7%), tái chế (2%). Các bãi chôn lấp không hợp vệ sinh lại chiếm tỷ lệ lớn (51%), tương đương với 102 bãi trên toàn bộ khu vực miền Trung và Tây Nguyên chủ yếu là bãi rác hở, đổ lộ thiên (rác đổ đống, để khô đốt và khi đầy thì lấp đất) hoặc bán lộ thiên (đào hố rãnh sâu, đổ rác, để khô đốt và khi đầy thì lấp đất); do đó không đảm bảo các yêu cầu kĩ thuật, vệ sinh môi trường và các bãi chôn lấp chưa được đầu tư hệ thống xử lý khí thải và nước rỉ rác. Phương pháp xử lý CTRSH tại các bãi này chủ yếu là phun chế phẩm sinh học hạn chế mùi và côn trùng; rắc vôi khử khuẩn.
Về cơ chế công tác quản lý chất thải rắn sinh hoạt, trong những năm qua, tình trạng chung trên cả nước và khu vực miền Trung và Tây Nguyên nổi bật lên là vấn đề văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường chưa đồng bộ, nhiều văn bản chồng chéo, trách nhiệm về quản lý chất thải rắn sinh hoạt còn chưa rõ ràng giữa các ngành, các cấp. Phần lớn các tỉnh, thành phố đều thiếu nguồn vốn để thực hiện quy hoạch quản lý CTR. Nguồn vốn ngân sách các cấp đầu tư cho việc quản lý chất thải rắn ở khu vực công ích còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế, khó khăn trong kêu gọi xã hội hóa do cơ chế, chính sách ưu đãi đối với lĩnh vực này còn thấp. Công tác đào tạo nâng cao năng lực quản lý chất thải rắn cho cán bộ cấp huyện, cấp xã chưa được chú trọng đúng mức. Số lượng cán bộ làm công tác quản lý CTR các cấp còn thiếu, chưa đáp ứng yêu cầu.
Hiện nay cũng chưa có quy định cụ thể về thẩm định công nghệ xử lý chất thải rắn, cũng như chưa khuyến cáo công nghệ xử lý rác thải sinh hoạt để áp dụng do đó địa phương còn gặp nhiều lúng túng khi lựa chọn công nghệ xử lý rác thải sinh họat. Việc nghiên cứu khoa học, công nghệ xử lý, tái chế, tái sử dụng nhằm phát huy tối đa giá trị từ rác thải chưa được chú trọng. Công nghệ xử lý rác thải hiện tại chủ yếu là chôn lấp; sử dụng diện tích đất lớn gây lãng phí tài nguyên, khó khăn trong công tác giải phóng mặt bằng; một số bãi chôn lấp thực hiện đốt thủ công gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Ý thức bảo vệ môi trường trong một bộ phận nhân dân và doanh nghiệp còn hạn chế, đặc biệt là tại các khu vực miền biển, miền núi. Hiện vẫn còn xảy ra tình trạng vứt rác bừa bãi làm mất mỹ quan, gây ô nhiễm môi trường.
2. Các quy định mới về quản lý CTRSH
2.1. Các quy định mới
Tại Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 và các văn bản hướng dẫn chi tiết thi hành đã đưa ra các quy định mới liên quan đến quản lý CTRSH, cụ thể như sau:
– Đưa ra quy định CTRSH được phân loại theo nguyên tắc thành 03 loại là chất thải rắn có khả năng tái sử dụng, tái chế; chất thải thực phẩm; chất thải rắn sinh hoạt khác và giao Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định việc phân loại cụ thể nhóm chất thải rắn sinh hoạt khác và chất thải cồng kềnh; có chính sách khuyến khích việc phân loại riêng chất thải nguy hại trong chất thải rắn sinh hoạt phát sinh từ hộ gia đình, cá nhân, lộ trình thực hiện chậm nhất là 31/12/2024.
– Đưa ra quy định về nguyên tắc thu giá dịch vụ thu gom, vận chuyển và xử lý CTRSH được tính dựa trên khối lượng CTRSH phát sinh và đã được phân loại theo quy định. Cụ thể, chất thải rắn có khả năng tái sử dụng, tái chế, chất thải nguy hại phát sinh từ hộ gia đình, cá nhân đã được phân loại theo quy định không phải chi trả giá dịch vụ thu gom, vận chuyển và xử lý, trường hợp không phân loại hoặc phân loại không đúng quy định thì phải chi trả giá dịch vụ thu gom, vận chuyển và xử lý như đối với chất thải rắn sinh hoạt khác, lộ trình thực hiện chậm nhất là 31/12/2024.
2.2. Các quy định để đảm bảo thực thi
– Hộ gia đình, cá nhân có trách nhiệm chuyển chất thải rắn sinh hoạt đã được phân loại đến điểm tập kết theo quy định hoặc chuyển giao cho cơ sở thu gom, vận chuyển chất thải rắn sinh hoạt.
– Chủ dự án đầu tư, chủ sở hữu, ban quản lý khu đô thị mới, chung cư cao tầng, tòa nhà văn phòng phải bố trí thiết bị, công trình lưu giữ chất thải rắn sinh hoạt phù hợp với các loại chất thải theo quy định; tổ chức thu gom chất thải từ hộ gia đình, cá nhân và chuyển giao cho cơ sở thu gom, vận chuyển chất thải rắn sinh hoạt.
– Cơ sở thu gom, vận chuyển chất thải rắn sinh hoạt có quyền từ chối thu gom, vận chuyển chất thải rắn sinh hoạt của hộ gia đình, cá nhân không phân loại, không sử dụng bao bì đúng quy định và thông báo cho cơ quan có thẩm quyền để kiểm tra, xử lý theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp hộ gia đình, cá nhân sử dụng bao bì của chất thải rắn sinh hoạt khác theo quy định;
– Cơ sở thực hiện dịch vụ xử lý chất thải rắn sinh hoạt có trách nhiệm ký quỹ khi có hoạt động chôn lấp chất thải; không khuyến khích đầu tư cơ sở thực hiện dịch vụ xử lý chất thải rắn sinh hoạt chỉ có phạm vi phục vụ trên địa bàn một đơn vị hành chính cấp xã;
– Quy định tổ dân phố, tổ chức chính trị xã hội phối hợp đơn vị thu gom, vận chuyển chất thải rắn sinh hoạt hướng dẫn, vận động cộng đồng dân cư, hộ gia đình, cá nhân chuyển giao chất thải rắn sinh hoạt cho đơn vị thu gom, vận chuyển hoặc điểm tập kết đúng quy định; giám sát và công khai hành vi vi phạm của hộ gia đình, cá nhân trong phân loại, thu gom chất thải rắn sinh hoạt;
– Giao Bộ TNMT giúp Chính phủ làm đầu mối thống nhất quản lý nhà nước về quản lý chất thải rắn, trong đó bao gồm các nội dung về cơ chế, chính sách…và việc hướng dẫn phương pháp định giá dịch vụ xử lý chất thải rắn sinh hoạt; công bố định mức kinh tế, kỹ thuật về thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn sinh hoạt.
– Quy định cụ thể về vấn đề lựa chọn công nghệ xử lý CTRSH như tiêu chí lựa chọn công nghệ, lộ trình hạn chế chôn lấp trực tiếp chất thải…;
– Ủy ban nhân dân cấp tỉnh:
+ Quy định chi tiết về quản lý chất thải rắn sinh hoạt của hộ gia đình, cá nhân trên địa bàn;
+ Quy định giá cụ thể đối với dịch vụ thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn sinh hoạt;
+ Lựa chọn cơ sở thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải rắn sinh hoạt thông qua hình thức đấu thầu theo quy định của pháp luật về đấu thầu; trường hợp không thể lựa chọn thông qua hình thức đấu thầu thì thực hiện theo hình thức đặt hàng hoặc giao nhiệm vụ theo quy định của pháp luật.
+ Quy định cụ thể lộ trình, hình thức và mức thu giá dịch vụ thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn sinh hoạt theo khối lượng, chủng loại phát sinh;
– Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm kiểm tra việc tuân thủ các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường trong việc thu gom, vận chuyển chất thải rắn sinh hoạt; xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về quản lý chất thải rắn sinh hoạt theo thẩm quyền.
– Cơ quan, tổ chức, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, chủ đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung, cụm công nghiệp có phát sinh chất thải từ hoạt động sinh hoạt, văn phòng với tổng khối lượng dưới 300 kg/ngày được lựa chọn hình thức quản lý chất thải rắn sinh hoạt như hộ gia đình, cá nhân.
– Cơ quan, tổ chức, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, chủ đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung, cụm công nghiệp có phát sinh chất thải rắn sinh hoạt (trên 300 kg/ngày) phải chuyển giao chất thải rắn sinh hoạt cho các đối tượng sau:
+ Cơ sở thực hiện dịch vụ thu gom, vận chuyển do chính quyền địa phương lựa chọn (thông qua hình thức đấu thầu theo quy định của pháp luật về đấu thầu; trường hợp không thể lựa chọn thông qua hình thức đấu thầu thì thực hiện theo hình thức đặt hàng hoặc giao nhiệm vụ theo quy định của pháp luật);
+ Cơ sở thực hiện dịch vụ thu gom, vận chuyển có hợp đồng chuyển giao chất thải rắn sinh hoạt cho cơ sở vận chuyển do chính quyền địa phương lựa chọn theo quy định;
+ Cơ sở thực hiện dịch vụ thu gom, vận chuyển có hợp đồng chuyển giao với cơ sở tái sử dụng, tái chế, xử lý chất thải rắn sinh hoạt;
+ Cơ sở thực hiện dịch vụ thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải;
+ Việc vận chuyển chất thải rắn sinh hoạt phải bằng phương tiện vận chuyển đáp ứng yêu cầu bảo vệ môi trường theo quy định của Bộ Tài nguyên và Môi trường;
+ Cơ sở sản xuất thức ăn chăn nuôi, thủy sản hoặc sản xuất phân bón phù hợp đối với chất thải thực phẩm.
– Cơ quan, tổ chức, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, chủ đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung, cụm công nghiệp có trách nhiệm ký hợp đồng dịch vụ thu gom, vận chuyển và xử lý; chi trả giá dịch vụ theo hợp đồng dịch vụ và theo quy định cụ thể của chính quyền địa phương.
– Thông tư số 02/2022/TT-BTNMT quy định rõ giá dịch vụ thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn sinh hoạt bao gồm giá dịch vụ áp dụng đối với tổ chức, cá nhân phát sinh chất thải rắn sinh hoạt (là chi phí hộ gia đình, cá nhân, cơ quan, tổ chức, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, chủ đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung, cụm công nghiệp phải trả cho hoạt động thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn sinh hoạt) và giá dịch vụ áp dụng đối với chủ đầu tư, cơ sở thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải rắn sinh hoạt (là chi phí mà Ủy ban nhân dân các cấp chi trả cho chủ đầu tư, cơ sở được lựa chọn theo quy định để cung cấp dịch vụ thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải rắn sinh hoạt). Thông tư cũng đưa ra quy định nguyên tắc định giá dịch vụ áp dụng đối với tổ chức, cá nhân phát sinh chất thải rắn sinh hoạt, cụ thể như sau:
+ Giá dịch vụ thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải rắn sinh hoạt phát sinh từ hộ gia đình, cá nhân được tính theo nguyên tắc có sự bù đắp thông qua ngân sách địa phương;
+ Giá dịch vụ thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải rắn sinh hoạt phát sinh từ cơ quan, tổ chức, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, chủ đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung, cụm công nghiệp được tính trên nguyên tắc tính đúng, tính đủ chi phí cho hoạt động thu gom, vận chuyển và xử lý.
Đặc biệt, Thông tư đã đưa ra hướng dẫn liên quan đến nội dung thu giá dịch vụ thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn sinh hoạt theo khối lượng hoặc thể tích chất thải. Theo đó, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định hình thức thu giá dịch vụ thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn sinh hoạt theo khối lượng hoặc thể tích chất thải theo một trong các trường hợp sau:
– Thông qua giá bán bao bì đựng chất thải rắn sinh hoạt. Giá bán bao bì bao gồm giá thành sản xuất bao bì và giá dịch vụ thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn sinh hoạt;
– Thông qua thể tích thiết bị chứa đựng chất thải rắn sinh hoạt;
– Thông qua việc cân xác định khối lượng chất thải rắn sinh hoạt (đối với các cơ quan, tổ chức) hoặc các hình thức khác do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định.
Đối với trường hợp thực hiện theo hình thức thông qua giá bán bao bì đựng chất thải rắn sinh hoạt, Thông tư đưa ra quy định về yêu cầu kỹ thuật như sau:
– Có quy cách, kiểu dáng, kích thước cụ thể, thể tích khác nhau theo quy định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh để bảo đảm dễ dàng phân biệt với các loại bao bì thông thường khác. Mỗi loại bao bì đựng chất thải rắn sinh hoạt có thể tích khác nhau tương ứng với mức giá bán khác nhau;
– Bao bì đựng các loại chất thải rắn sinh hoạt khác nhau có màu sắc khác nhau; bao bì đựng chất thải thực phẩm có màu xanh, bao bì đựng chất thải rắn sinh hoạt khác có màu vàng. Trong trường hợp cần thiết, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có thể quy định màu sắc khác, bảo đảm đồng bộ, thống nhất trên địa bàn tỉnh;
– Chất liệu bao bì đựng chất thải phải phù hợp với công nghệ xử lý chất thải của địa phương. Khuyến khích sử dụng bao bì là chất liệu dễ phân hủy sinh học;
– Bao bì đựng chất thải thực phẩm hoặc có lẫn chất thải thực phẩm phải đảm bảo tránh rò rỉ nước và phát tán mùi;
– Bao bì đựng chất thải rắn sinh hoạt có thiết kế dễ buộc, dễ mở, bảo đảm chất thải rắn sinh hoạt không rơi vãi và thuận tiện cho việc kiểm tra;
– Chất thải rắn có khả năng tái sử dụng, tái chế được lưu chứa trong các bao bì thông thường, bảo đảm có khả năng lưu chứa và không gây ô nhiễm môi trường.
Bên cạnh đó, Thông tư đưa ra quy định về phương pháp định giá dịch vụ xử lý chất thải rắn sinh hoạt áp dụng đối với nhà đầu tư và cung cấp dịch vụ xử lý chất thải rắn sinh hoạt tại Điều 31.
3. Tổ chức thực hiện
3.1. Trách nhiệm của Bộ Tài nguyên và Môi trường
Trong năm 2022, Bộ Tài nguyên và Môi trường đang khẩn trương thực hiện các nhiệm vụ sau:
– Ban hành và công bố Danh mục công nghệ xử lý chất thải rắn sinh hoạt khuyến cáo áp dụng tại Việt Nam, làm cơ sở cho các địa phương tổ chức triển khai;
– Xây dựng và ban hành Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về bãi chôn lấp chất thải rắn và về lò đốt chất thải;
– Ban hành hướng dẫn kỹ thuật về thu gom, phân loại rác thải tại nguồn phù hợp với vùng miền, khu vực đô thị và nông thôn để triển khai thực hiện; triển khai thí điểm các hoạt động phân loại chất thải rắn sinh hoạt tại hộ gia đình và cá nhân tại một số địa phương;
– Xây dựng các hướng dẫn kỹ thuật đối với việc cải tạo, nâng cấp và xử lý ô nhiễm môi trường tại các bãi chôn lấp rác thải không hợp vệ sinh, các khu vực bị ô nhiễm do rác thải gây ra, đảm bảo yêu cầu về bảo vệ môi trường.
– Xây dựng, hoàn thiện và ban hành các định mức kinh tế kỹ thuật về thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải.
– Trình cấp có thẩm quyền ban hành Nghị định xử phạt vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường, trong đó có các chế tài xử lý đối với các hành vi vi phạm về phân loại, thu gom, vận chuyển và xử lý CTRSH.
3.2. Trách nhiệm của các địa phương
Để công tác quản lý CTRSH theo quy định của Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 được nhanh chóng thực thi, các địa phương cần quan tâm tổ chức thực hiện tốt các nội dung như sau:
a) Đối với UBND cấp tỉnh
– Tổ chức thực hiện tốt các quy định mới của Luật BVMT 2020 và văn bản quy định chi tiết thi hành, trong đó đề cao vai trò trách nhiệm của chính quyền địa phương, của người dân và doanh nghiệp.
– Thực hiện thí điểm, sớm hơn lộ trình quy định của Luật BVMT 2020 trong việc triển khai cơ chế phân loại rác thải tại nguồn; thu giá, phí dịch vụ thu gom, vận chuyển và xử lý CTRSH theo khối lượng, bao bì chứa tại một số tỉnh, thành phố lớn.
– Triển khai thực hiện hiệu quả quy định trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất, nhập khẩu, ưu tiên khuyến khích doanh nghiệp chủ động xây dựng hệ thống thu gom, tái chế, xử lý sản phẩm, bao bì sau xử lý của mình.
– Đẩy mạnh xã hội hóa trong công tác quản lý chất thải rắn sinh hoạt, đặc biệt là trong việc khuyến khích đầu tư xây dựng và vận hành cơ sở xử lý chất thải rắn sinh hoạt, triển khai áp dụng mô hình thu gom, vận chuyển và xử lý CTRSH theo quy định của pháp luật về BVMT và Luật đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP) đảm bảo tính hiệu quả, ổn định và bền vững của dự án, phát huy và đa dạng hóa nhiều nguồn lực cho xử lý chất thải.
– Tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng và phát triển nguồn nhân lực: các địa phương cần bố trí quỹ đất cho khu xử lý chất thải rắn sinh hoạt, bố trí đủ kinh phí cho việc đầu tư xây dựng, vận hành hệ thống thu gom, lưu giữ, trung chuyển, vận chuyển và xử lý chất thải rắn sinh hoạt trên địa bàn.
b) Ủy ban nhân dân cấp huyện
– Ban hành theo thẩm quyền quy định, chương trình, kế hoạch về quản lý chất thải rắn sinh hoạt;
– Tổ chức thực hiện chiến lược, chương trình, kế hoạch và nhiệm vụ về quản lý chất thải rắn sinh hoạt;
– Tổ chức triển khai hoạt động phân loại chất thải rắn sinh hoạt tại nguồn theo quy định.
c) Ủy ban nhân dân cấp xã
– Kiểm tra việc tuân thủ quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường trong việc thu gom, vận chuyển chất thải rắn sinh hoạt; xử lý hành vi vi phạm pháp luật về quản lý chất thải rắn sinh hoạt theo thẩm quyền; xem xét, giải quyết kiến nghị, phản ánh của tổ chức, cộng đồng dân cư, hộ gia đình, cá nhân có liên quan đến việc thu gom, vận chuyển chất thải rắn sinh hoạt;
– Chủ trì, phối hợp với cơ sở thu gom, vận chuyển chất thải rắn sinh hoạt, cộng đồng dân cư, tổ chức chính trị – xã hội ở cơ sở để xác định thời gian, địa điểm, tần suất và tuyến thu gom chất thải rắn sinh hoạt;
– Hướng dẫn hộ gia đình, cá nhân chuyển giao chất thải rắn sinh hoạt cho cơ sở thu gom, vận chuyển hoặc đến điểm tập kết đúng quy định; hướng dẫn cộng đồng dân cư giám sát và công khai trường hợp không tuân thủ quy định về phân loại, thu gom chất thải rắn sinh hoạt;
– Xây dựng kế hoạch, phương án hoặc nội dung thực hiện quản lý chất thải rắn sinh hoạt trên địa bàn;
– Tổ chức triển khai hoạt động phân loại chất thải rắn sinh hoạt tại nguồn theo quy định.
4. Giải pháp thực hiện
Trong thời gian tới, nhằm đáp ứng các quy định của Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 và các văn bản hướng dẫn chi tiết thi hành đã đưa ra các quy định mới liên quan đến quản lý CTRSH cũng như nâng cao năng lực quản lý CTRSH trên phạm vi toàn quốc nói chung và khu vực miền Trung và Tây Nguyên nói riêng, các cơ quan quản lý các cấp cần sớm triển khai đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó tập trung vào các giải pháp cụ thể như sau:
– Rà soát đánh giá hiệu lực, hiệu quả của hệ thống chính sách, pháp luật trong công tác quản lý chất thải, từ đó đề xuất bổ sung hoàn thiện, thống nhất và đồng bộ, xây dựng các quy định, hoàn thiện cơ chế chính sách ưu đãi, khuyến khích các hoạt động giảm thiểu, tái sử dụng và tái chế CTR; ban hành lộ trình phù hợp giảm thiểu và tiến tới chấm dứt việc sử dụng túi nilon khó phân hủy. Hoàn thiện các quy định hướng dẫn về phương pháp định giá dịch vụ thu gom, vận chuyển, xử lý CTR sinh hoạt. Xây dựng các quy định về quản lý, sử dụng sản phẩm và vật liệu tái chế đối với các loại hình sản xuất tái chế từ các loại CTR.
– Tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định về phân công, phân cấp quản lý nhà nước về quản lý chất thải giữa các Bộ ngành, địa phương, bảo đảm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Sửa đổi, bổ sung quy định giao chức năng nhiệm vụ thống nhất quản lý CTR sinh hoạt về cho Bộ Tài nguyên và Môi trường, Sở Tài nguyên và Môi trường, đồng thời là sửa đổi chức năng nhiệm vụ của các tổ chức trực thuộc cho phù hợp.
– Xây dựng và trình Chính phủ ban hành các giải pháp phù hợp để thúc đẩy thành lập các khu liên hợp xử lý CTR theo vùng nhằm mục tiêu tạo ra các trung tâm xử lý CTR SH vùng, thúc đẩy phát triển công nghệ xử lý CTRSH.
– Rà soát, xây dựng bổ sung các cơ chế, chính sách tăng cường hợp tác công – tư, huy động các nguồn lực xã hội hóa, nguồn lực tư nhân trong công tác BVMT;
– Xây dựng các quy định cụ thể nhằm khuyến khích áp dụng hệ thống quản lý môi trường (ISO 14000); kiểm toán môi trường đối với chất thải; các quy định hướng dẫn sử dụng cô-ta phát thải và hình thành thị trường chuyển nhượng cô-ta phát thải.
– Tăng cường và đa dạng hoá nguồn đầu tư tài chính. Tiếp tục đẩy mạnh việc đa dạng hóa nguồn tài chính cho quản lý chất thải từ: ngân sách nhà nước; các dự án, chương trình tài trợ trong và ngoài nước; Quỹ BVMT Việt Nam; Quỹ BVMT của địa phương huy động vốn từ cộng đồng, hợp tác công tư, các nguồn vốn hợp pháp khác…
– Ưu tiên đầu tư, hỗ trợ cho việc phát triển các công nghệ xử lý, tái chế chất thải phù hợp với điều kiện KT – XH, khí hậu và hiện trạng chất thải tại địa phương.
– Xây dựng các chính sách ưu đãi và hỗ trợ đầu tư trong lĩnh vực xử lý CTR theo quy định hiện hành; khuyến khích và kêu gọi các thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển lĩnh vực thu gom, vận chuyển và xử lý CTR;
– Ưu tiên phân bổ các nguồn vốn để đầu tư trang thiết bị thu gom, vận chuyển và xây dựng các cơ sở hạ tầng đồng bộ;
– Quy hoạch và lựa chọn các công nghệ tái chế, xử lý chất thải phù hợp. Cần tăng cường nghiên cứu, áp dụng công nghệ tiên tiến về tái chế và xử lý CTR, đặc biệt ưu tiên phát triển công nghệ thu hồi năng lượng, phát điện từ xử lý CTR. Đồng thời, nghiên cứu, ứng dụng các chỉ tiêu, tiêu chuẩn trong việc lựa chọn công nghệ, thiết kế, xây dựng và vận hành cơ sở xử lý CTR; nghiên cứu cải tiến và ứng dụng các trang thiết bị thu gom, vận chuyển chất thải bảo đảm mỹ quan và hiệu quả sử dụng.
– Tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra, xử phạt vi phạm về BVMT để kịp thời xử lý đối với các cơ sở xử lý CTR còn gây ô nhiễm môi trường;
– Nâng cao nhận thức cộng đồng, khuyến khích hoạt động phân loại chất thải tại nguồn. Xây dựng và thực hiện các chương trình truyền thông nâng cao nhận thức cộng đồng ở các trường học, cộng đồng dân cư, cơ quan nhà nước, các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ về giảm thiểu phân loại tại nguồn, tái chế, tái sử dụng CTR, thải bỏ CTR đúng nơi quy định.Thu hút cộng đồng tham gia quản lý chất thải, tăng cường vai trò của cộng đồng trong quản lý chất thải là một việc làm cần thiết.
– Xây dựng và thực hiện Đề án nâng cao năng lực trong việc thu gom, vận chuyển, xử lý CTR sinh hoạt tại các địa phương.
ThS. Phạm Hồng Sơn,
Cục trưởng Cục Bảo vệ môi trường miền Trung và Tây Nguyên,
Tổng cục Môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường
Nguồn: Báo Môi Trường và Đô Thị