Tiếp tục đề xuất giải pháp gỡ vướng trong quản lý chi phí xây dựng
Do vậy, mới đây, tại công văn 310/BXD-KTXD, Bộ Xây dựng tiếp tục đề xuất với Thủ tướng Chính phủ một số giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc.
Thực hiện nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 09/7/2022 của Chính phủ và các văn bản, công điện chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về việc đôn đốc triển khai quyết liệt, hiệu quả Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội, Bộ Xây dựng đã tổng hợp tình hình biến động giá VLXD và sự tác động của biến động giá nhiên liệu, VLXD đến việc triển khai thực hiện các hợp đồng xây dựng thời gian qua.
Theo đó, từ cuối quý IV/2020 đến hết quý I/2022, giá vật liệu tăng mạnh đã tác động trực tiếp làm tăng chi phí ĐTXD của các công trình, dự án. Tổng hợp số liệu do các địa phương công bố cho thấy: Chỉ số giá xây dựng quý I/2022 tăng trung bình khoảng 10% so với thời điểm năm 2020 (thời điểm chưa có biến động), trong đó chỉ số giá xây dựng một số công trình (công nghiệp, giao thông, hạ tầng kỹ thuật…) tại một số địa phương tăng từ 15 – 20%.
Yếu tố này đã tác động lớn đến công tác quản lý thực hiện hợp đồng xây dựng giữa chủ đầu tư và các nhà thầu thi công.
Cụ thể, đối với hợp đồng trọn gói đang triển khai, theo quy định của pháp luật đây là loại hợp đồng có giá trị hợp đồng không thay đổi suốt quá trình thực hiện. Giá VLXD, nhiên liệu tăng bất thường tác động chủ yếu đến các hợp đồng được ký kết trước quý IV/2020 trở về trước và các hợp đồng quy mô nhỏ có giá trị nhỏ hơn hoặc bằng 20 tỷ đồng được ký kết từ năm 2021 trở lại đây (theo quy định của pháp luật về đấu thầu, các hợp đồng quy mô nhỏ phải thực hiện theo hình thức hợp đồng trọn gói).
Ngoài ra, một số hợp đồng thi công chậm tiến độ bởi các nguyên nhân khách quan như chậm bàn giao mặt bằng, ảnh hưởng của dịch Covid-19 hoặc phải điều chỉnh dự án, điều chỉnh thiết kế…. dẫn đến một số nhà thầu đã “rơi” vào giai đoạn giá tăng cao. Đây là một trong những nguyên nhân nhà thầu gặp khó khăn, thi công cầm chừng.
Đối với hợp đồng đơn giá cố định, theo quy định của pháp luật đây là hợp đồng có đơn giá thanh toán cố định trong suốt quá trình thực hiện, do vậy khi tăng giá vật liệu, nhiên liệu thì cũng gặp khó khăn tương tự như đối với trường hợp hợp đồng trọn gói.
Đối với hợp đồng theo đơn giá điều chỉnh, hầu hết đường cao tốc Bắc Nam phía Đông, các công trình thi công sau năm 2020 đều chọn phương án ký kết hợp đồng theo nguyên tắc điều chỉnh đơn giá.
Pháp luật hiện hành về hợp đồng xây dựng đã quy định rõ các phương pháp điều chỉnh giá để chủ đầu tư, nhà thầu lựa chọn (điều chỉnh theo chỉ số giá công trình, chỉ số giá theo nhóm VLXD chủ yếu; điều chỉnh theo từng danh mục giá VLXD; giá điều chỉnh theo phương pháp bù trừ trực tiếp…).
Việc thực hiện các hợp đồng theo đơn giá điều chỉnh sẽ giảm thiểu các rủi ro, ảnh hưởng do biến động giá VLXD. Tuy nhiên, việc lựa chọn nhà thầu, xác lập, ký kết các hợp đồng thi công phụ thuộc vào việc lựa chọn, áp dụng nguồn giá, chỉ số giá xây dựng, phạm vi điều chỉnh giá đã được các bên thỏa thuận trong từng hợp đồng, gói thầu cụ thể.
Theo Bộ Xây dựng, trên thực tế, việc thực hiện các hợp đồng theo đơn giá điều chỉnh cũng đã gặp một số khó khăn, vướng mắc như giá vật tư, vật liệu và chỉ số giá xây dựng ở nhiều địa phương công bố, dùng để điều chỉnh giá hợp đồng đã công bố chậm. Một số giá xây dựng, chỉ số giá xây dựng công bố không sát với diễn biến giá trên thị trường. Danh mục VLXD công bố không đầy đủ, ảnh hưởng đến việc thanh toán các hợp đồng.
Phạm vi điều chỉnh giá trong một số hợp đồng bị giới hạn do các bên không lường hết rủi ro về trượt giá và tình trạng thiếu nguồn cung đối với một số loại VLXD chủ yếu (như đất đắp, cát, đá…), nhất là các dự án đường cao tốc phía Đông giai đoạn 1.
Một số hợp đồng không xác lập việc điều chỉnh giá đối với phần vật liệu đất đắp (chiếm tỷ trọng khoảng 15-25% giá hợp đồng). Việc lựa chọn các phương pháp, phạm vi, đối tượng, nguồn dữ liệu để áp dụng trong hợp đồng chưa phù hợp, đã không phản ánh đúng thực tế biến động giá thị trường…
Nỗ lực gỡ vướng của các bộ, ngành
Trước tình hình nói trên, Bộ Xây dựng và các Bộ, ngành Trung ương, các địa phương đã triển khai quyết liệt một số giải pháp tháo gỡ. Bộ Xây dựng thông qua các Văn bản số 1545/BXD-KTXD ngày 10/5/2021, số 959/BXD-KTXD ngày 23/3/2022 và hội nghị trực tuyến đã yêu cầu các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện nghiêm việc công bố giá theo quy định pháp luật; Tăng tần suất công bố và thường xuyên cập nhật, điều chỉnh công bố giá VLXD, chỉ số giá xây dựng bảo đảm kịp thời với những biến động giá trên thị trường xây dựng; Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát, quản lý thị trường, không để xảy ra tình trạng lợi dụng để đầu cơ, tăng giá bất hợp lý.
Bộ tăng cường kiểm tra, hướng dẫn các địa phương về mặt nghiệp vụ khảo sát thu thập số liệu, cách thức xác định giá vật liệu, thiết bị công trình, chỉ số giá xây dựng.
Riêng trong 7 tháng đầu năm 2022, Bộ Xây dựng đã chủ trì, phối hợp với Bộ Giao thông vận tải tổ chức đoàn hướng dẫn, giám sát, kiểm tra việc công bố giá tại 07 địa phương (gồm Quảng Ninh, Thanh Hóa, Khánh Hòa, Lâm Đồng, Đồng Nai, Cần Thơ, Tiền Giang) về việc chấp hành quy định về công bố giá, phù hợp với yêu cầu thực tế hiện nay.
Bên cạnh đó, Ban Chỉ đạo điều hành giá quốc gia đã giao Bộ Công Thương thành lập đoàn kiểm tra các cơ sở sản xuất kinh doanh thép xây dựng, để tránh việc “đầu cơ, găm hàng, thổi giá” thép; yêu cầu Bộ Tài nguyên và Môi trường cùng với các Bộ, ngành, địa phương rà soát quy hoạch, hỗ trợ VLXD để xác định nguồn cung về VLXD;
Bộ Giao thông vận tải đã thực hiện việc tổng hợp danh mục VLXD chủ yếu sử dụng trong các công trình giao thông trọng điểm quốc gia gửi các địa phương để làm căn cứ khảo sát, công bố giá trên địa bàn.
Với những giải pháp trên, công tác tổ chức xác định, công bố giá xây dựng, chỉ số giá xây dựng tại các địa phương đã có nhiều chuyển biến tích cực. Đã có 44 địa phương công bố giá vật liệu hàng tháng, 19 địa phương công bố giá VLXD hàng quý. Một số địa phương thực hiện tốt công tác khảo sát, công bố giá VLXD kịp thời, bám sát diễn biến thị trường, thuận tiện cho chủ đầu tư, nhà thầu trong quá trình thanh, quyết toán và xác lập quản lý chi phí ĐTXD.
Tiếp tục đề xuất, kiến nghị một số giải pháp gỡ vướng
Theo Bộ Xây dựng, mặc dù đến nay, khi các địa phương chủ động việc công bố giá VLXD, chỉ số giá xây dựng theo tháng, sát với thị trường, cơ bản đáp ứng việc quản lý chi phí ĐTXD, quản lý chi phí hợp đồng. Giá VLXD đã bắt đầu hạ nhiệt, có xu hướng giảm. Tuy nhiên, thực tế biến động quá nhanh, các giải pháp nêu trên vẫn chưa theo kịp thực tiễn. Do vậy, nhiều hợp đồng đã và đang thực hiện trong 02 năm qua vẫn còn gặp khó khăn.
Để tiếp tục gỡ vướng, Bộ Xây dựng kiến nghị một số giải pháp: Đối với hợp đồng đã ký trọn gói, đơn giá cố định, theo quy định của pháp luật hiện hành thì các hợp đồng này chỉ được điều chỉnh trong trường hợp bất khả kháng” hoặc “hoàn cảnh thay đổi”. Trong khi đó, các tiêu chí về bất khả kháng và hoàn cảnh thay đổi tại văn bản quy phạm pháp luật lại không định lượng, không quy định cụ thể “biến động giá VLXD là trường hợp bất khả kháng hay trường hợp hoàn cảnh thay đổi. Nếu đề nghị sửa đổi, cụ thể hóa các quy định này tại các Luật có liên quan (Bộ Luật Dân sự, Luật Đấu thầu, Luật Xây dựng), thời gian sẽ kéo dài đến năm 2023 – 2024. Giải pháp này không còn phù hợp với giai đoạn hiện nay khi giá VLXD đang có xu hướng giảm.
Hiện, Bộ Xây dựng đang phối hợp cùng các Bộ, Ngành và các địa phương tổng hợp số liệu thực hiện của các hợp đồng, để báo cáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
Đối với hợp đồng theo đơn giá điều chỉnh, Bộ Xây dựng kiến nghị Chính phủ giao UBND các tỉnh, thành phố chủ động tổ chức kiểm tra, rà soát, đánh giá tổng thể việc công bố giá VLXD, chỉ số giá xây dựng trên địa bàn quản lý từ năm 2021 trở lại đây, đảm bảo công bố sát giá thị trường, công bằng, minh bạch.
Trường hợp giá VLXD, chỉ số giá đã công bố theo quy chưa phản ánh đúng biến động giá VLXD trên thị trường, các địa phương bổ sung việc công bố VLXD, chỉ số giá xây dựng, tăng tần suất sớm hơn, theo tháng, đảm bảo theo quy định của Luật Xây dựng và Nghị định số 10/2021/NĐ-CP ngày 09/02/2021 của Chính phủ.
Giao Bộ Xây dựng, Bộ Tư pháp, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch đầu tư, căn cứ chức năng nhiệm vụ được giao, thực hiện giám sát, đánh giá kết quả thực hiện của các địa phương, kịp thời tham mưu các giải pháp tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc (nếu có), báo cáo Chính phủ.
Giao cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định đầu tư chỉ đạo chủ đầu tư các dự án: Báo cáo đánh giá các khó khăn, vướng mắc và nguyên nhân (chủ quan, khách quan); Xác định rõ trách nhiệm các bên và cơ sở pháp lý về việc điều chỉnh hợp đồng (kể cả các hợp đồng BOT), đề xuất giải pháp tháo gỡ khó khăn trên cơ sở chủ động xử lý những vấn đề thuộc thẩm quyền; Xác định mức độ ảnh hưởng đến tổng mức đầu tư đã phê duyệt, cân đối các nguồn vốn, báo cáo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Xây dựng, Bộ Giao thông vận tải để tổng hợp, báo cáo Chính phủ./.