Phóng viên Chất lượng Việt Nam đã có cuộc trao đổi với TS. Hà Minh Hiệp – Quyền Chủ tịch Ủy ban Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Quốc gia, Bộ Khoa học và Công nghệ nhằm làm rõ vấn đề trên.

Thưa ông, hiện nay công tác quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa đang được triển khai như thế nào? Đâu là thuận lợi, khó khăn trong quá trình triển khai?

Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa được Quốc hội ban hành từ năm 2007, đến nay cũng đã có khoảng thời gian thực thi khá dài. Chúng tôi nhận thấy, thời gian vừa qua, công tác kiểm tra, quản lý về chất lượng sản phẩm hàng hóa đã được triển khai đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất. Trong đó, làm rõ trách nhiệm của các bộ, ngành, địa phương đối với việc tham gia quản lý về chất lượng. Đồng thời cũng làm rõ trách nhiệm của doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân khi tham gia các hoạt động này.

Thứ hai, công tác quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa đã tạo ra sự nhận thức tốt với người tiêu dùng và doanh nghiệp. Cụ thể, khi có Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa thì quan niệm cũng như nhận thức của xã hội, đặc biệt là các doanh nghiệp đối với vấn đề chất lượng được cải thiện rõ rệt. Đồng thời, ý thức, trách nhiệm của người tiêu dùng trong việc bảo vệ quyền lợi của chính mình ngày càng được chú trọng. Qúa trình triển khai Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa cũng tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam.

Thứ ba, nhiều Hiệp định thương mại thế hệ mới được ký kết dựa trên nguyên tắc quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa ban hành trong Luật, tạo hành lang về những nguyên tắc, cách thức để hội nhập quốc tế. Trước khi có Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa chúng ta chỉ có Pháp lệnh.

Theo đó, hệ thống quy phạm pháp luật của Việt Nam từng bước được xây dựng đảm bảo công tác quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm hàng hóa. Các pháp luật chuyên ngành cũng đồng bộ để kiện toàn, bổ sung cho hoạt động quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa ở các ngành, lĩnh vực đặc thù.

Nhờ có Luật mà công tác tuyên truyền, thông tin được đẩy mạnh. Những cán bộ làm công tác quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa của Bộ Khoa học và Công nghệ, các bộ ngành, địa phương, doanh nghiệp được nâng cao cả về chất lượng và số lượng.  

Song song với thuận lợi vẫn luôn là những khó khăn. Ví dụ, quá trình xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật còn thiếu tính đồng bộ do Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa được ban hành nhiều năm nên các Luật hay văn bản ban hành sau này chưa đảm bảo tính đồng bộ đối với Luật.

Dù nhận thức của người dân và doanh nghiệp đã nâng lên nhưng quá trình hội nhập, chuyển đổi số sẽ tạo ra rất nhiều sản phẩm hàng hóa, loại hình, dịch vụ, mô hình mới đòi hỏi nhận thức và công tác quản lý cũng phải có những thay đổi phù hợp.

Cần nói thêm việc Việt Nam tham gia 16 Hiệp định thương mại thế hệ mới vừa là thuận lợi cũng là khó khăn nếu không thay đổi cách thức, mô hình, tư duy về công tác quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa, thì chính chúng ta cũng khó thực thi tốt các hiệp định.

Nền kinh tế Việt Nam có độ mở ngày càng sâu rộng thông qua việc ký kết hàng loạt Hiệp định thương mại thế hệ mới. Để thích ứng với bối cảnh này, theo ông, công tác quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa cần có những bước chuyển mình như thế nào?

Các Hiệp định thương mại thế hệ mới yêu cầu chúng ta thay đổi rất nhiều. Trước đây, khi quản lý về chất lượng sản phẩm hàng hóa chúng ta hay nghĩ đến vấn đề tiêu chuẩn, nghĩa là sản phẩm hàng hóa theo tiêu chuẩn nào thì ta quản lý như thế hoặc là các bộ, ngành có những yêu cầu kỹ thuật đặc thù, các thông lệ quốc tế đặc thù.

Tuy nhiên, với cách tiếp cận mới như hiện nay thì tiêu chuẩn là chưa đủ mà yêu cầu toàn diện hơn với hạ tầng chất lượng quốc gia (NQI). Hạ tầng chất lượng quốc gia ngoài vấn đề tiêu chuẩn còn có hoạt động đánh giá sự phù hợp – nghĩa là hoạt động thử nghiệm, giám định, chứng nhận phải bảo đảm sao cho đáp ứng tiêu chuẩn. Nếu có tiêu chuẩn mà hoạt động đánh giá sự phù hợp không bảo đảm thì cũng không thử nghiệm được.

Trước đây chúng ta chỉ công bố sản phẩm này theo tiêu chuẩn này thì quốc tế và khách hàng sẽ dễ dàng tin theo. Nhưng hiện nay nếu nói sản phẩm theo tiêu chuẩn mà không chứng minh được công tác thử nghiệm, giám định phù hợp với tiêu chuẩn đó thì họ cũng không tin nữa.

Tiếp đó là hoạt động đo lường. Chúng ta thấy rằng toàn bộ hệ thống sản xuất, thiết bị thử nghiệm nếu không được dẫn xuất chuẩn đo lường sẽ không bảo đảm thống nhất. Do đó, công tác quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa hiện nay phải gắn với công tác đo lường.

Cuối cùng là thể chế chính sách. Trước đây chúng ta có thể đưa ra các tiêu chuẩn, phép thử nhưng nếu không có thể chế chính sách đi kèm thì khó bảo đảm được hoạt động cũng như sự kết nối thống nhất của hạ tầng chất lượng quốc gia. Theo xu hướng của thế giới thì hạ tầng chất lượng quốc gia đang gắn với mục tiêu phát triển bền vững.

Ủy ban Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Quốc gia là cơ quan chịu trách nhiệm soạn thảo nội dung chính đối với dự thảo Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa sửa đổi. Vậy, Ủy ban đã đưa ra những nội dung gì mới để phù hợp với thực tiễn, thưa ông?

Chúng tôi đang tham mưu để báo cáo Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ xem xét hoàn thiện hồ sơ lập đề nghị xây dựng Luật. Trong đó tập trung vào 4 chính sách.

Chính sách đầu tiên liên quan đến việc xác định sản phẩm hàng hóa nhóm 2 – những sản phẩm hàng hóa có nguy cơ rủi ro, cũng như các biện pháp quản lý. Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa trước đây chúng ta chỉ ghi là “sản phẩm hàng hóa nhóm 2” nhưng hiện nay trong luật mới chúng tôi đang nghiên cứu để phân loại. Bởi ngay cả trong sản phẩm hàng hóa nhóm 2 cũng có những loại có nguy cơ mất an toàn cao, chúng ta sẽ thực hiện biện pháp tiền kiểm. Thế nhưng với những sản phẩm hàng hóa nguy cơ chỉ ở mức trung bình và thấp thì chúng ta hoàn toàn có thể chuyển sang biện pháp hậu kiểm, cho thông quan trước, kiểm tra sau, cho phép doanh nghiệp tự công bố hợp quy.

Chính sách thứ hai là các giải pháp công nghệ mới trong công tác quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa. Ví dụ những giải pháp gắn với mã QR, truy xuất nguồn gốc, điện tử rất hữu ích trong việc tăng cường công tác quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa.

Chính sách thứ ba đề cập đến việc xây dựng và hình thành nền tảng về hạ tầng chất lượng quốc gia hướng tới phát triển bền vững. Trong đó, hạ tầng chất lượng quốc gia sẽ giúp doanh nghiệp, người dân, Chính phủ nhìn nhận chất lượng sản phẩm hàng hóa trên góc độ tổng thể về tiêu chuẩn, đánh giá sự phù hợp, công nhận, đo lường, chính sách. Hạ tầng chất lượng quốc gia giúp cho sản phẩm hàng hóa hướng đến xuất khẩu. Hiện nay quốc tế có Chỉ số hạ tầng chất lượng quốc gia đánh giá mức độ của các quốc gia, nếu chúng ta nâng chỉ số của nước ta cao hơn mức hiện nay thì rõ ràng thế giới sẽ có sự tin tưởng và dễ dàng chấp nhận hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam.

Chính sách thứ tư tập trung vào nâng cao trách nhiệm quản lý của các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp. Đặc biệt sẽ đẩy mạnh phân cấp ủy quyền trong công tác quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa trong các bộ, ngành, địa phương sao cho tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp trong quá trình sản xuất, kinh doanh.

Thưa ông, bên cạnh việc rà soát, sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa, chúng ta cần làm gì để nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hóa, từ đó tạo sức cạnh tranh cho doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế?

Tại hồ sơ sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa lần này, chúng tôi đã hướng nhiều đến việc làm sao để thúc đẩy sản phẩm hàng hóa Việt Nam có thể xuất khẩu. Để có thể xuất khẩu sang các thị trường thế giới, bên cạnh việc nâng cao tỷ lệ hài hòa các tiêu chuẩn Việt Nam đối với tiêu chuẩn quốc tế thì chúng ta cũng cần nâng cao năng lực thực thi của doanh nghiệp nhằm đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế.

Cùng với đó là các đơn vị hỗ trợ về hoạt động tiêu chuẩn đo lường chất lượng, thử nghiệm, chứng nhận, giám định cố gắng áp dụng các biện pháp về thực hành thể chế tốt. Đây là công cụ giúp chúng ta tháo bỏ những “điểm nghẽn” trong sản xuất kinh doanh và thể chế chính sách. Chúng ta biết rằng doanh nghiệp muốn sản xuất kinh doanh tốt, muốn xuất khẩu, có doanh thu thì họ cần có môi trường kinh doanh tốt. Thời gian qua, chúng ta đã tháo gỡ rất nhiều những điều kiện kinh doanh không hợp lý thì bây giờ chúng tôi mong muốn nâng lên một mức mới là thực hành thể chế tốt.

Mặt khác, muốn Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa sửa đổi, bổ sung có đóng góp tốt hơn cho xã hội có lẽ một số Luật chuyên ngành liên quan cũng cần sửa đổi để đảm bảo tính đồng bộ, vừa đáp ứng thông lệ quốc tế, vừa đáp ứng thực tiễn sản xuất trong nước.

Ngoài ra, muốn có sản xuất đạt chất lượng tốt, hệ thống quản lý, quy trình đạt chất lượng thì phải có những con người được đào tạo, tập huấn. Đặc biệt cần chú trọng công tác truyền thông nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hóa và công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

Xin trân trọng cảm ơn ông!

Thiết kế: Thanh Tùng

Nguồn: Tạp chí điện tử chất lượng Việt Nam

Bạn cũng có thể thích