10 tháng năm 2023, xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đạt hơn 43 tỷ USD
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết, tháng 10/2023, kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản ước đạt 4,81 tỷ USD, tăng 7,43% so với tháng 9/2023 và tăng 11,9% so với tháng 10/2022.
Trong đó, nhóm hàng nông sản ước đạt 2,47 tỷ USD, tăng 31,1% so với tháng 10/2022; chăn nuôi ước đạt 40 triệu USD, tăng 6%; lâm sản ước đạt 1,28 tỷ USD, giảm 0,2%; thủy sản ước đạt 850 triệu USD, giảm 5,9%; đầu vào sản xuất ước đạt 162 triệu USD, giảm 12,3%.
Tính chung, 10 tháng năm 2023, tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản ước đạt 43,08 tỷ USD, giảm 4,2% so với cùng kỳ năm ngoái.
Trong đó, nhóm thuỷ sản ước đạt 7,45 tỷ USD, giảm 20,5%; lâm sản ước đạt 11,65 tỷ USD, giảm 19,3%; đầu vào sản xuất ước đạt 1,64 tỷ USD, giảm 20,3%.
Riêng nhóm hàng nông sản ước đạt 21,94 tỷ USD, tăng 17% so với cùng kỳ và được đóng góp bởi giá trị xuất khẩu nhóm hàng rau quả ước đạt 4,91 tỷ USD, tăng 78,9%; xuất khẩu gạo ước đạt 3,97 tỷ USD, tăng 34,9%; xuất khẩu hạt điều ước 2,92 tỷ USD, tăng 14,8%.
Bên cạnh đó, nhóm sản phẩm chăn nuôi xuất khẩu ước đạt 402 triệu USD, tăng 22% so với cùng kỳ.
Về giá xuất khẩu bình quân một số nông sản chính 10 tháng đầu năm 2023 như sau: giá cao su xuất khẩu ước đạt 1.330 USD/tấn, giảm 17,3%; giá chè xuất khẩu 1.710 USD/tấn, tăng 6,3%; giá hạt điều xuất khẩu ước đạt 5.693 USD/tấn, giảm 5%; giá hồ tiêu xuất khẩu ước đạt 3.339 USD/tấn, giảm 23,4%; giá xuất khẩu sắn và sản phẩm từ sắn 425 USD/tấn, giảm 3,3%…
Riêng giá gạo xuất khẩu ước đạt 558 USD/tấn, tăng 15,3% và cà phê 2.527 USD/tấn, tăng 10,3% so với cùng kỳ năm ngoái.
Về thị trường, 10 tháng đầu năm, Trung Quốc, Hoa Kỳ và Nhật Bản tiếp tục duy trì là 3 thị trường xuất khẩu lớn nhất; trong đó, giá trị xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc chiếm tỷ trọng 22,8%, tăng 16,2%; Hoa Kỳ chiếm 20,6%, giảm 20,8% và Nhật Bản chiếm 7,5%, giảm 8,5%.
Tại buổi họp báo chiều 01/11, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Phùng Đức Tiến cho rằng, với đà tăng trưởng này, xuất khẩu nông lâm thủy sản năm 2023 có thể về đích với kim ngạch 54 tỷ USD, tăng nhẹ 2% so với năm 2022.
Đến hết tháng 10, giá trị xuất khẩu của nhóm hàng lâm sản, thủy sản, đầu vào sản xuất giảm sâu, chỉ có nhóm nông sản, sản phẩm chăn nuôi tăng trưởng dương.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, tháng 10, thị trường hàng hóa trong nước duy trì ổn định, nguồn cung được đảm bảo, giá cả không có biến động bất thường. Riêng giá lúa gạo có xu hướng tăng.
Giá lúa, gạo ở Đồng bằng sông Cửu Long tăng trở lại từ 300 – 600 đồng/kg. Giá lợn hơi giảm từ 1.000 – 2.000 đồng/kg do sức tiêu thụ giảm; giá tôm sú nguyên liệu giảm 20.000 đồng/kg; giá cá tra nguyên liệu không biến động nhiều từ 27.000 – 33.000 đồng/kg…
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cho biết, Bộ tiếp tục phối hợp với Bộ Công Thương theo dõi sát sao và báo cáo kịp thời Ban Chỉ đạo Điều hành Giá và Tổ Điều hành Thị trường trong nước tình hình sản xuất, nguồn cung các sản phẩm nông sản đang vào vụ thu hoạch, biến động giá cả, đặc biệt là các mặt hàng đang chịu tác động lớn từ thị trường thế giới như mặt hàng gạo.
Đồng thời, tiếp tục triển khai Chỉ thị số 24/CT-TTg ngày 5/8/2023 của Thủ Tướng Chính phủ về việc đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia và thúc đẩy sản xuất, xuất khẩu gạo bền vững trong giai đoạn hiện nay.
Bộ chỉ đạo các đơn vị chuyên môn hướng dẫn các địa phương điều tiết kế hoạch sản xuất, thúc đẩy xuất khẩu; đàm phán xử lý rào cản kỹ thuật, mở rộng thị trường xuất khẩu nông, lâm, thủy sản.
Để đẩy mạnh phát triển thị trường tiêu thụ trong nước và xuất khẩu, ngành tiếp tục xử lý các vấn đề thị trường nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu nông sản, thủy sản, đặc biệt là thị trường Trung Quốc, Mỹ, EU, liên minh kinh tế Á – Âu…
Ngoài ra, bộ cũng sẽ tận dụng các FTAs, đặc biệt là Hiệp định CPTPP, EVFTA để đẩy mạnh xuất khẩu hàng nông lâm thủy sản chủ lực, hỗ trợ doanh nghiệp ký kết đơn hàng xuất khẩu mới.
Theo Thương hiệu Sản phẩm
Nguồn: Báo doanhnghiepthuonghieu